https://dauantinhyeuthienchua.com/ Dấu Ấn Tình Yêu Thiên Chúa Fri, 15 Nov 2024 16:19:33 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.5.5 Thầy là sự sống lại và là sự sống! https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/su-song/ Fri, 15 Nov 2024 16:17:54 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12969 Đời sống con người trên trần gian có nhiều rào cản phải đối diện, và thường thì sớm muộn, cách này hay cách khác vượt qua được. Nhưng có một rào cản mà không ai vượt qua được: sự chết! Không ai là con người còn đang sống sinh hoạt muốn nói đến điều này. …

Bài viết Thầy là sự sống lại và là sự sống! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>

Đời sống con người trên trần gian có nhiều rào cản phải đối diện, và thường thì sớm muộn, cách này hay cách khác vượt qua được. Nhưng có một rào cản mà không ai vượt qua được: sự chết!

Không ai là con người còn đang sống sinh hoạt muốn nói đến điều này. Nhưng nó lại là thực tế của đời sống trong dòng thời gian lịch sử nhân loại. Vì xưa nay nào đã có ai thoát khỏi hay bài trừ được bước ải rào cản này đâu!

Sự chết là một đề tài cấm kiêng kỵ. Hầu như ai cũng cúi đầu nín lặng không muốn đề cập đến. Vì thấy mình bất lực cùng cảm thấy lúng túng, không thể nói về điều đau buồn cùng không hiểu biết gì cả.

Hằng năm Hội Thánh Công Giáo dành tháng Mười Một tưởng nhớ cầu nguyện cho các người đã qua đời. Cầu nguyện cho họ, qua đó nói lên tâm tình xác tín: Người tín hữu Chúa Kitô, chúng ta là con người đang sống dọc đường gío bụi trần gian, nhưng một ngày nào đó cũng phải chết, như những người đã chết trước chúng ta!

Các tín hữu Chúa Kitô thuở Hội Thánh lúc ban đầu có xác tín: sự chết thuộc về đời sống con người! Nhưng họ đã sống dựa trên niềm tin cùng niềm hy vọng vào Chúa, như lời Chúa Giesu Kitô đã nhắn nhủ: Thầy là sự sống lại và là sự sống!

Gia đình Lazaro, theo như phúc âm thuật lại, quen thân với Chúa Giêsu Kitô. Dọc đường rao giảng nước Thiên Chúa khi nghe tin người bạn Lazaro đã qua đời, Chúa Giêsu đi đến Betania, nơi nhà Lazaro ở. Nhưng Lazaro đã chết bốn ngày trước đó rồi: một người thanh niên qua đời qúa sớm đang còn trẻ tuổi! Tình trạng như thế thật thảm thương cho mọi người. Chính Chúa Giêsu cũng đã thổn thức nghẹn ngào trong dòng nước mắt chảy dài trên đôi gò má… Và Ngài còn phải đối diện với sự hoài nghi đau buồn hoàn cảnh đau buồn tang tóc, sự giận dữ của thân nhân người qúa cố: Martha.

Martha, chị của Lazaro đặt thắc mắc cũng là lời khiển trách với Chúa Giêsu: Nếu Thầy mà có mặt ở đây, em con đã không phải chết? Thầy ở đâu vậy, lúc chúng tôi trong cơn chao đảo bối cần đến sự trợ giúp của Thầy…?

Câu thắc mắc tại sao như thế này luôn được đặt ra từ muôn thuở và sẽ còn luôn mãi nữa, mà con người không sao hiểu nổi Thiên Chúa nguồn sự sống. Nhất là khi người thân yêu ruột thịt chết lúc còn trẻ tuổi: Tại sao vậy? Chúa ở đâu vậy?

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho câu hỏi của Martha vang lên âm hưởng nhiệm mầu lạ lùng: Em con sẽ sống lại! và ngài còn nói tiếp: Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, sẽ sống cả khi người đó đã chết. Và ai tin vào Thầy, sẽ không chết đời đời!”

Câu trả lời của Chúa Giêsu Kitô là trung tâm chính yêu của đức tin, cùng là căn bản của niềm hy vọng. Chúng ta người Kitô hữu, cho dù sự chết là số phận con người, nhưng luôn có một niềm hy vọng. Niềm hy vọng này mạnh hơn sự chết. Niềm hy vọng của chúng ta có tên: Chúa Giêsu Kitô. Trong sự chết và sự phục sinh sống lại Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng sự chết. Ngài là sự sống lại và là sự sống.

Chúng ta có một niềm hy vọng mạnh mẽ : Chúa Giesu Kitô. Điều Chúa Jesus Kitô nói nơi nấm mồ của Lazaro, cũng là điều Ngài nói với chúng ta: Con sẽ sống lại! Và trên căn bản đó cũng là điều xác tín sâu thẳm của con người tín hữu Chúa Kitô trong hoàn cảnh tang tóc đau buồn, vì người thân yêu ruột thịt đã qua đời: Người chồng, người vợ, người cha, người mẹ, người anh chị em, người con của Bạn, của tôi sẽ sống lại!

Người tín hữu Chúa Kitô chúng ta được phép khắc ghi trong tâm khảm điều chúng ta tin: Chúa Giêsu Kitô là sự sống lại và là sự sống. Như Martha, chị của Lazaro chân nhận: Vâng, thưa Thầy, con tin Thầy là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, là sự sống của chúng con!

Theo tập tục đạo đức và văn hóa, con người xưa nay tưởng nhớ cầu nguyện cho người qua đời, và con người cũng nói chuyện cầu nguyện với người đã qua đời, trong niềm hiệp thông cùng một đức tin như lời tuyên xưng trong kinh Tin Kính ” Tôi tin các thông công, tôi tin kẻ chết sống lại và sự sống đời sau. Amen!

“Qua kinh nghiệm cầu nguyện với các người đã qua đời, tôi thấy sự hiệp thông trong Hội Thánh mở ra một chiều kích mới
Có những chân lý được người chết nhắc nhở.
Có những tình hình được người chết báo động.
Có những ơn lành được người chết bầu cửa cho.

Tôi coi một số người đã qua đời là những người thân gần gũi. Họ và tôi cùng chung một lý tưởng. Họ và tôi cùng chia sẻ một chuyến đi. Họ đi trước. Tôi đi sau. Kẻ trước người sau đều nhắm vào một đích điểm là nhà Cha. Chúng tôi luôn nâng đỡ nhau, luôn cầu nguyện cho nhau,.” (Cố Giám mục GB. Bùi Tuần)

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290908.htm

 

Bài viết Thầy là sự sống lại và là sự sống! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12969
Hình Ảnh Ánh Sáng Ngàn Thu https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/anh-sang-ngan-thu/ Fri, 01 Nov 2024 18:18:12 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12924 Ngày lễ cầu cho các linh hồn, và trong thánh lễ an táng người qúa cố chúng ta hát mở đầu thánh lễ với lời cầu nguyện: “ Lạy Chúa xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.” Đó cũng …

Bài viết Hình Ảnh Ánh Sáng Ngàn Thu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>

Ngày lễ cầu cho các linh hồn, và trong thánh lễ an táng người qúa cố chúng ta hát mở đầu thánh lễ với lời cầu nguyện: “ Lạy Chúa xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.”

Đó cũng tương tự như lời cầu nguyện của dân Chúa ngày xưa cầu khấn cho các người đã qua đời, sau khi thành Thánh Jerusalem bị xâm chiếm phá huỷ vào thời điểm năm 100. sau Chúa giáng sinh. Lời cầu nguyện này nói lên niềm tin, tình yêu mến cùng niềm hy vọng của con người.

Lời hát cầu nguyện của người tín hữu Chúa Kitô cho người qúa cố không chỉ phổ thông rộng rãi cùng được yêu mến khắc ghi trong tâm khảm nói lên tình tự người còn sống với người đã qúa cố, nhưng còn nói lên sự tương quan liên kết với ánh sáng vĩnh cửu (ngàn thu)nữa.

Vậy hình ảnh ánh sáng vĩnh cửu ngàn thu là gì?

Biểu tượng ánh sáng giữ vai trò quan trọng trong đức tin Kitô giáo. Ánh sáng được nhìn hiểu là món qùa tặng châu báu của Thiên Chúa ban cho sự sống trong vũ trụ. Ngay từ khởi đầu Thiên Chúa đã sáng tạo ánh sáng là cực đối chiếu lại bóng tối, như Kinh thánh thuật lại. (St 1,3).

Rồi Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian làm người cũng từng khẳng định Ngài ánh sáng từ trời cao đêm đến cho trần gian( Ga 1,9). Ánh sáng là hình ảnh biểu tượng diễn tả sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Cây nến Chúa Phục sinh nhắc nhớ người tín hữu Chúa Kitô đến ánh sáng Chúa Kitô phục sinh.

Hỉnh ảnh ánh sáng cây nến Rửa tội, ngày đầu đời sống trên trần gian, và ánh sáng cây nến ngày qua đời, ngày cuối cùng đời sống trên trần gian, chiếu tỏa sự sống đức tin rõ nét đời sống con người.

Ánh sáng cây nến ngày rửa tội được thắp sáng lên từ ngọn lửa cây nến Chúa phục sinh trong suốt dọc đời sống đức tin của người tín hữu Chúa Kitô qua mọi chặng đường đời sống trần trần gian. Ánh sáng này đồng hành chiếu soi tâm hồn họ cho tới ngảy đời sống trên trần gian kết thúc vẹn toàn.

Vì thế, vào ngày lễ tưởng nhớ các linh hồn, theo tập tục đạo đức lòng hiếu thảo, người tín hữu Chúa Kitô thường đến thăm viếng nghĩa trang, nơi có phần mồ mả của người thân yêu, của người quen biết ân nhân, của bạn bè…Họ sửa sang mồ mả cho đẹp sạch sẽ, trưng cắm bông hoa tươi và đốt thắp ngọn nến, hoặc thắp sáng cây đèn dầu cắm đặt trên phần mộ người qúa cố nằm sâu trong lòng đất.

Hình ảnh biểu tượng này nói lên tâm tình yêu mến, lòng hiếu thảo biết ơn cùng sự gắn bó của người còn sống với người đã qua đời.

Hình ảnh ánh sáng cây nến, chiếc đèn dầu trên phần mộ người qúa cố phát tỏa ra biểu tượng đức tin vào sự phục sinh sống lại và vào sự sống vĩnh cửu. Như khi xưa người đã qua đời và người còn đang trên đường sống trần gian hằng tuyên tín: Tôi tin loài người ngày sau sống lại và sự sống đời sau, Amen.

Đốt thắp sáng ngọn nến, chiếc đèn dầu tưởng nhớ người qúa cố và cầu nguyện cho họ xin Chúa cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn, luôn là một tập tục đạo đức tốt lành, đẹp thánh đức trong nếp sống văn hóa con người có gía trị thánh thiêng cao qúi.

“ Mặt trời mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây. Như thế, lúc bắt đầu đêm tối ở bán cầu này cũng là lúc bắt đầu ngày sáng ở bán cầu kia. Con người “ mọc” lúc sinh ra, và “lặn” lúc qua đời. Như thế, chết ở đời này là sinh vào đời sau.” ( Cố Lm. Vũ Xuân Huyên).

Lễ tưởng nhớ các Linh hồn

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290908.htm

 

Bài viết Hình Ảnh Ánh Sáng Ngàn Thu đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12924
Tình Yêu Dâng Hiến https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/tinh-yeu-2/ Mon, 30 Sep 2024 18:41:01 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12796 Bông Hồng Nhỏ Tình Yêu Dâng Hiến – Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu– (Lễ Kính 1/10 hàng năm) “…Đây là Bông Hoa mà chính tôi ước muốn dâng lên cho Chúa, một Bông Hoa kín đáo mà hương thơm của nó chỉ dành cho Thiên Đàng…” (Trích Một Tâm Hồn) * Sơ lược Tiểu Sử: Thánh Têrêsa Hài …

Bài viết Tình Yêu Dâng Hiến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>

Bông Hồng Nhỏ Tình Yêu Dâng Hiến
– Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu
(Lễ Kính 1/10 hàng năm)

“…Đây là Bông Hoa mà chính tôi ước muốn dâng lên cho Chúa, một Bông Hoa kín đáo mà hương thơm của nó chỉ dành cho Thiên Đàng…” (Trích Một Tâm Hồn)

Sơ lược Tiểu Sử:

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu (2 tháng 1 năm 1873 – 30 tháng 9 năm 1897), là một nữ tu Công Giáo được phong hiển Thánh và được ghi nhận là một Tiến sĩ Hội Thánh.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu chào đời tại Alencon, Pháp. Têrêsa là con của Louis Martin – một thợ đồng hồ và Zelie-Marie Guérin – một người dệt đăng-ten. Cha mẹ của Têrêsa rất đạo đức. Louis đã từng muốn làm thầy tu nhưng lại bị từ chối vì không biết tiếng Latin. Zelie-Marie đã từng muốn làm nữ tu nhưng bị cho biết là bà không có ơn gọi. Thay vào đó, bà khấn là nếu kết hôn, bà sẽ dâng hết các con mình cho Giáo hội. Louis và Zelie-Marie gặp nhau vào năm 1858 và lấy nhau chỉ ba tháng sau đó. Họ có chín người con, nhưng chỉ có năm cô con gái – Marie, Pauline, Leonie, Celine và Therese (Têrêsa) – là sống sót đến tuổi trưởng thành. Têrêsa là con út trong nhà. Việc đan đăng-ten của Zelie thành công đến nỗi Louis bán tiệm sửa đồng hồ của mình để giúp bà.

Zelie chết vì bệnh ung thư vú năm 1877 khi Têrêsa chỉ mới bốn tuổi. Louis bán cửa tiệm đăng-ten và dọn đến Lisieux, vùng Calvados, trực thuộc Normandie, nơi người em vợ là Isidore Guerin, một dược sĩ, sống với vợ và hai con gái.

Têrêsa theo học tại Tu viện Notre Dame du Pre của dòng Bênêđictô. Khi người được chín tuổi, chị Pauline, người đã đảm nhận vai trò là “người mẹ thứ hai” của cô, gia nhập một tu viện dòng Camêlô tại Lisieux. Têrêsa cũng muốn vào dòng Camêlô như chị, nhưng khổ nỗi vẫn còn nhỏ quá. Ở tuổi 15, sau khi chị Marie cũng gia nhập tu viện ấy, Têrêsa lại thử xin vào dòng một lần nữa, nhưng cha bề trên của tu viện lại không cho vì Têrêsa còn quá trẻ. Cha Têrêsa đem cô con gái 15 tuổi của mình đi hành hương Rôma. Trong một buổi tiếp kiến chung với Giáo hoàng Leo XII, Têrêsa đã xin người cho phép mình nhập dòng ở tuổi 15. Nhưng Giáo hoàng Leo XII lại nói: “Này con, hãy làm theo ý bề trên quyết định”.

Ít lâu sau, Giám mục Bayeux ra quyền cho bề trên dòng nhận Têrêsa. Tháng 4 năm 1888, Têrêsa trở thành một nữ tu dòng Camêlô. Năm 1889, cha Têrêsa lên cơn đột quỵ và phải vào nhà thương tư Bon Sauveur tại Caen, nơi ông ở ba năm. Ông trở lại Lisieux vào năm 1892 và qua đời năm 1894. Với cái chết của cha mình, Celine, người đã lo cho ông, gia nhập tu viện mà các chị em kia đang sống. Năm 1895, người chị em bà con là Marie Guerin cũng gia nhập cùng dòng. Còn Leonie, sau nhiều lần thất bại với dòng Camêlô, trở thành nữ tu Francoise-Therese của dòng Đức Bà Thăm viếng ở Caen.

Thánh Têrêsa được biết đến nhiều nhất bởi linh đạo “Đường Thơ ấu” của mình. Trong việc tìm kiếm sự thánh thiện, Têrêsa đã thấu hiểu rằng để đạt được đều ấy và bày tỏ tình yêu của mình đối với Chúa, thì không cần phải thực hiện những việc làm anh hùng hoặc “cao siêu”. Têrêsa viết: “Tình yêu chứng tỏ chính nó bởi việc làm, vì vậy làm sao con có thể chứng tỏ tình yêu của mình được? Con không thể làm những việc cao siêu được. Cách duy nhất để con chứng tỏ tình yêu của mình là bằng cách rắc hoa; những bông hoa này là tất cả những hy sinh bé nhỏ, mỗi cái nhìn, mỗi lời nói và thực hiện mọi việc làm bé nhỏ nhất với tình yêu”.

Linh đạo “Đường Thơ ấu” này cũng xuất hiện trong con đường người nữ tu trẻ tiến đến đời sống thiêng liêng: “Đôi lúc, khi con đọc các bài viết thiêng liêng, nơi mà sự hoàn hảo được cho thấy với một ngàn cản trở cũng như những ảo tưởng xung quanh nó, tâm trí bé nhỏ tội nghiệp của con trở nên mệt mỏi, con đóng cuốn sách, để lại đầu óc con như bị cắt ra làm đôi và trái tim con như bị co rút lại. Con mở Kinh Thánh ra. Và ngay lúc đó, tất cả đều trông thật là rực rỡ, một chữ duy nhất đã mở ra những chân trời vô tận cho linh hồn của con. Sự hoàn hảo trông thật là dễ dàng. Con thấy đó là đủ để nhận ra sự hi hữu của mình và vì như vậy, dâng trọn bản thân mình, như một đứa trẻ, vô cánh tay của Chúa nhân lành. Để lại cho những tâm hồn vĩ đại, những trí óc vị đại những cuốn sách to tát con không thể hiểu nổi, con vui mừng hớn về sự bé nhỏ của mình bởi vì “chỉ có trẻ nhỏ và những ai có đầu óc như vậy sẽ được nhận vào bữa tiệc Thiên Đàng”.

Những đoạn văn như trên cũng cho thấy Têrêsa nhiều tình cảm và cũng rất ngây thơ. Điều này được thể hiện rõ qua cách người nữ tu tiến đến sự cầu nguyện: “Đối với con, cầu nguyện là sự dấy lên của trái tim, nó là một cái nhìn đơn sơ về Thiên Đàng, nó là tiếng kêu của nhận diện và tình yêu, ôm ấp cả khổ cực lẫn niềm vui. Nói một cách khác, nó là một cái gì đó cao quý, siêu nhiên, mở rộng tâm hồn con ra và kết hợp nên một với Chúa… Con đã không có dũng cảm để tìm trong sách các lời kinh đẹp đẽ… Con giống như một đứa con nít chưa biết đọc, chỉ nói với Chúa tất cả những gì con muốn và Ngài sẽ hiểu thấu. “Sức khỏe suy yếu và qua đời”.

Những năm cuối cùng của Têrêsa được đánh dấu với sự suy sụt được chịu đựng một cách kiên trì, không lời than thở. Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1896, Têrêsa bắt đầu ho ra máu. Căn bệnh lao phổi đã đi đến hồi nghiêm trọng. Têrêsa đã có liên lạc với một cơ sở truyền giáo của dòng Camêlô ở bên Đông Dương thuộc Pháp và đã được mời đi, nhưng vì bệnh tình, nên đã không đi được. Tháng 7 năm 1897, Têrêsa được chuyển đến bệnh xá của tu viện, nơi người nữ tu trẻ trút hơi thở cuối cùng vào ngày 30 tháng 9 năm 1897, ở tuổi 24. Trên giường bệnh, Têrêsa đã trối: “Con đã đạt đến mức mà không thể nào chịu đau khổ được nữa, bởi vì đau khổ đã trở nên quá ngọt ngào đối với con.”

Cuộc đời Thánh Têrêsa HĐGS được ghi lại trong quyển Nhật ký MỘT TÂM HỒN của Thánh Nữ và đã được chuyển dịch sang nhiều thứ tiếng – Đây là một kiệt tác trong truyện các thánh, một kiểu mẫu thánh thiện đặc biệt, một bài ca tình ái tuyệt diệu.

Riêng song thân Thánh Nữ, ngày 18/10/15 trong dịp bế mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia đình, ĐGH Phanxicô đã tuyên thánh cho 2 vị là Louis và Zelie Martin- Cuộc đời ông bà là một tấm gương tuyệt vời cho cuộc sống hôn nhân và gia đình thánh thiện.

Tình Yêu Hoa Hồng

*Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai ở trong Tình Yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
(1 Gn.4: 16)

Vâng con sẽ hát, con còn hát mãi,
Dù trăm gai con vẫn hái Hoa Hồng,
Gai càng nhọn, tiếng con hát càng trong,

Gai càng dài, lời ca càng thánh thót (*)

Từ khi thánh Nữ về trời,
Mưa Hoa Hồng xuống cho đời Tình Yêu,
Cuộc đời ngắn ngủi bấy nhiêu,
Nhưng đầy nhân ái làm siêu lòng người,
Hai mươi bốn vĩnh biệt đời,
Trở về Thiên quốc là nơi an bình,
Tuổi xuân tận hiến đời mình,
Dâng cho Thiên Chúa trọn Tình yêu thương,
Đời sống nhỏ bé tầm thường,
Hy sinh, cầu nguyện, khiêm nhường, thứ tha,
Tình yêu là bạn diệu ca,
Hành động nhỏ bé hóa ra phi thường.
Giờ Người ngự chốn Thiên đường,
Con nơi trần thế còn vương lệ sầu,
Đời sống là cuộc bể dâu,
Lời con tha thiết nguyện cầu dâng lên,
Lời xưa Thánh Nữ đã truyền,
Việc làm dù nhỏ lời nguyền trinh trong,
Chính là một đóa Hoa Hồng,
Tăng thêm hương sắc mặn nồng Tình Yêu,
Lòng con thề hứa một điều:
Nguyện xin giữ trọn TÌNH YÊU HOA HỒNG.

(*) Chữ viết nghiêng, trích thơ Lm Đinh Lập Liễm

Đinh Văn Tiến Hùng

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290908.htm

 

Bài viết Tình Yêu Dâng Hiến đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12796
Hình ảnh thoát ra từ trái tim https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/hinh-anh-trai-tim/ Mon, 02 Sep 2024 02:26:41 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12699 Trong đời sống các bậc vợ chồng, cha mẹ con cái, bạn bè đều đã có kinh nghiệm về gía trị qúy báu của những lời nói, những tâm tình cử chỉ thoát ra từ trái tim tâm hồn. Vì những điều đó gây cảm động, rung cảm có sức hấp dẫn thu hút người …

Bài viết Hình ảnh thoát ra từ trái tim đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>

Trong đời sống các bậc vợ chồng, cha mẹ con cái, bạn bè đều đã có kinh nghiệm về gía trị qúy báu của những lời nói, những tâm tình cử chỉ thoát ra từ trái tim tâm hồn. Vì những điều đó gây cảm động, rung cảm có sức hấp dẫn thu hút người nghe đối diện. Nó phản ảnh sự chân thành tình yêu thương từ trái tim sang trái tim.

Nhiều Hội đoàn nhân vật trong xã hội có uy tín được mộ mến, tiếng nói của họ được lắng nghe theo dõi. Vì người nghe, khán thính giả cảm nhận ra từ nơi họ sự chân thành toát ra từ trái tim tâm hồn.

Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta chỉ là một người phụ nữ có nếp sống đơn giản. Phải, bề ngoài là một diện mạo chân dung nghèo khó thôi. Nhưng tiếng nói, nụ cười hành động của Mẹ lại có sức thu hút truyền cảm mãnh liệt. Vì nơi con người nếp sống của Mẹ phát truyền đi ngọn lửa năng lượng toát ra từ trái tim chân thành của Mẹ. Nên lời nói của Mẹ được mọi người chú ý lắng nghe lấy làm phương châm cho đời sống. Việc làm hành động bác ái của Mẹ được mọi người ủng hộ yêu mến kính trọng. Khi Mẹ còn sống trên trần gian và cả lúc này Mẹ đã qua đời, ngọn lửa năng lượng tình yêu của Mẹ vẫn hằng cháy sáng.

Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, trên đường giảng đạo tình yêu Thiên Chúa ở đất nước bên Do Thái, Chúa Giêsu đã thấy nhiều người quay lưng bỏ đi không còn muốn nghe người rao giảng nữa, ngài liền hỏi các Môn đệ của mình: Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?

Hình ảnh này phản ảnh không phải tất cả mọi người nghe Chúa Giêsu đều đi theo người. Có người bỏ đi, có người đứng lại nghe tìm hiểu xem sao…

Trong dòng lịch sử của Giáo hội Chúa ở trần gian cũng không khác hơn gì. Đời sống đức tin vào Chúa luôn hằng trải qua những giai đoạn thăng trầm lên xuống.

Có những người Kitô hữu sống dửng dưng lạnh nhạt với Giáo hội, với sứ điệp phúc âm của Chúa. Vì họ thấy tôn gíao không có gì hấp dẫn giúp họ giải quyết vấn đề đời sống cá nhân, gia đình của họ. Họ không hay chưa cảm nghiệm được tiếng nói của Chúa Giêsu, của Giáo Hội đụng chạm vào trái tim của họ!

Có những người tín hữu nồng nhiệt tin theo Chúa. Vì họ cảm nhận ra năng lượng ngọn lửa từ trái tim tình yêu Chúa truyền lan sang tâm hồn đời sống họ.

Có những người tín hữu không có nếp sống nồng nhiệt hăng say với tin mừng phúc âm của Chúa Giêsu. Nhưng họ tin và dè dặt chờ đợi ngọn lửa năng lượng tình yêu của Chúa truyền sang cho tâm hồn trái tim họ.

Ông Tông đồ Phero ngày xưa khi nghe Chúa Giesu hỏi, đã nói ngay: Lạy Thầy, bỏ Ngài con biết theo ai?

Câu trả lời bộc trực của Phero nói lên: những lời Thầy nói, việc Thầy làm đụng chạm vào trái tim tâm hồn con. Nó gây niềm cảm động, phát truyền ngọn lửa năng lượng cho con có sức lực giúp vượt qua những thử thách đang chờ đợi trong cuộc sống.

Những lời Thầy dậy đánh động tâm hồn con, khơi dậy trong con sức sống phấn khởi vươn lên, cùng là hướng chỉ đường đi cho đời sống.

Trong đời sống xưa nay luôn hằng có những mời gọi, những hứa hẹn quyến dũ về tiện nghi thoải mái, về của cải vật chất cho đời sống có hạnh phúc. Nhưng kinh nghiệm dân gian cũng như bản thân mỗi người xưa nay cho hay, khi đã có được những thứ đó đâu đã là hạnh phúc. Vì hạnh phúc không là món hàng hóa vật thể mua được ở ngoài chợ cửa hàng. Con người còn muốn hơn nữa.

Trái tim tâm hồn mà được tròn trần đầy, lúc đó mới có niềm vui hạnh phúc. Vì thế tiếng nói việc làm toát ra từ trái tim gây niềm cảm động, truyền năng lượng, cùng thu hút trái tim tâm hồn người nghe, người đối diện.

Một người bà lâu ngày xa cháu kể lại lần đến thăm đứa chắt nội. Đứa bé lạ bà, còn rụt rè, nhưng bỗng dưng nó bẽn lẽn nói: Bà chụ con yêu chụ! Thế là Bà đứng yên rưng rưng dòng nước mắt…bà cảm thấy niềm vui hạnh phúc thần thánh tràn ngập trái tim tâm hồn bà. Biến cố kỷ niệm hạnh phúc thần thánh này bà nhớ mãi suốt đời…

Câu trả lời của Thánh Phero: Bỏ Thầy con biết theo ai? Phản chiếu hình ảnh làn sóng năng lượng từ trái tim Chúa Giêsu truyền sang trái tim tâm hồn ông.

“ Một thứ lửa từ trái tim Chúa chia sẻ cho, sẽ làm cho gánh nặng Chúa trao được êm ái phần nào. Gánh nặng vẫn còn đó, nhưng ở đâu có lửa mến, ở đó có can đảm, vị tha và dâng hiến.

Lửa mến sẽ là nguồn khơi dậy những sáng kiến, để vẫn có thể mở Nước Trời trong những hoàn cảnh u tối nhất.:” ( Đức cố giám mục GB. Bùi Tuần)

Hình ảnh thoát ra từ trái tim

Trong đời sống các bậc vợ chồng, cha mẹ con cái, bạn bè đều đã có kinh nghiệm về gía trị qúy báu của những lời nói, những tâm tình cử chỉ thoát ra từ trái tim tâm hồn. Vì những điều đó gây cảm động, rung cảm có sức hấp dẫn thu hút người nghe đối diện. Nó phản ảnh sự chân thành tình yêu thương từ trái tim sang trái tim.

Nhiều Hội đoàn nhân vật trong xã hội có uy tín được mộ mến, tiếng nói của họ được lắng nghe theo dõi. Vì người nghe, khán thính giả cảm nhận ra từ nơi họ sự chân thành toát ra từ trái tim tâm hồn.

Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta chỉ là một người phụ nữ có nếp sống đơn giản. Phải, bề ngoài là một diện mạo chân dung nghèo khó thôi. Nhưng tiếng nói, nụ cười hành động của Mẹ lại có sức thu hút truyền cảm mãnh liệt. Vì nơi con người nếp sống của Mẹ phát truyền đi ngọn lửa năng lượng toát ra từ trái tim chân thành của Mẹ. Nên lời nói của Mẹ được mọi người chú ý lắng nghe lấy làm phương châm cho đời sống. Việc làm hành động bác ái của Mẹ được mọi người ủng hộ yêu mến kính trọng. Khi Mẹ còn sống trên trần gian và cả lúc này Mẹ đã qua đời, ngọn lửa năng lượng tình yêu của Mẹ vẫn hằng cháy sáng.

Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, trên đường giảng đạo tình yêu Thiên Chúa ở đất nước bên Do Thái, Chúa Giêsu đã thấy nhiều người quay lưng bỏ đi không còn muốn nghe người rao giảng nữa, ngài liền hỏi các Môn đệ của mình: Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?

Hình ảnh này phản ảnh không phải tất cả mọi người nghe Chúa Giêsu đều đi theo người. Có người bỏ đi, có người đứng lại nghe tìm hiểu xem sao…

Trong dòng lịch sử của Giáo hội Chúa ở trần gian cũng không khác hơn gì. Đời sống đức tin vào Chúa luôn hằng trải qua những giai đoạn thăng trầm lên xuống.

Có những người Kitô hữu sống dửng dưng lạnh nhạt với Giáo hội, với sứ điệp phúc âm của Chúa. Vì họ thấy tôn gíao không có gì hấp dẫn giúp họ giải quyết vấn đề đời sống cá nhân, gia đình của họ. Họ không hay chưa cảm nghiệm được tiếng nói của Chúa Giêsu, của Giáo Hội đụng chạm vào trái tim của họ!

Có những người tín hữu nồng nhiệt tin theo Chúa. Vì họ cảm nhận ra năng lượng ngọn lửa từ trái tim tình yêu Chúa truyền lan sang tâm hồn đời sống họ.

Có những người tín hữu không có nếp sống nồng nhiệt hăng say với tin mừng phúc âm của Chúa Giêsu. Nhưng họ tin và dè dặt chờ đợi ngọn lửa năng lượng tình yêu của Chúa truyền sang cho tâm hồn trái tim họ.

Ông Tông đồ Phero ngày xưa khi nghe Chúa Giesu hỏi, đã nói ngay: Lạy Thầy, bỏ Ngài con biết theo ai?

Câu trả lời bộc trực của Phero nói lên: những lời Thầy nói, việc Thầy làm đụng chạm vào trái tim tâm hồn con. Nó gây niềm cảm động, phát truyền ngọn lửa năng lượng cho con có sức lực giúp vượt qua những thử thách đang chờ đợi trong cuộc sống.

Những lời Thầy dậy đánh động tâm hồn con, khơi dậy trong con sức sống phấn khởi vươn lên, cùng là hướng chỉ đường đi cho đời sống.

Trong đời sống xưa nay luôn hằng có những mời gọi, những hứa hẹn quyến dũ về tiện nghi thoải mái, về của cải vật chất cho đời sống có hạnh phúc. Nhưng kinh nghiệm dân gian cũng như bản thân mỗi người xưa nay cho hay, khi đã có được những thứ đó đâu đã là hạnh phúc. Vì hạnh phúc không là món hàng hóa vật thể mua được ở ngoài chợ cửa hàng. Con người còn muốn hơn nữa.

Trái tim tâm hồn mà được tròn trần đầy, lúc đó mới có niềm vui hạnh phúc. Vì thế tiếng nói việc làm toát ra từ trái tim gây niềm cảm động, truyền năng lượng, cùng thu hút trái tim tâm hồn người nghe, người đối diện.

Một người bà lâu ngày xa cháu kể lại lần đến thăm đứa chắt nội. Đứa bé lạ bà, còn rụt rè, nhưng bỗng dưng nó bẽn lẽn nói: Bà chụ con yêu chụ! Thế là Bà đứng yên rưng rưng dòng nước mắt…bà cảm thấy niềm vui hạnh phúc thần thánh tràn ngập trái tim tâm hồn bà. Biến cố kỷ niệm hạnh phúc thần thánh này bà nhớ mãi suốt đời…

Câu trả lời của Thánh Phero: Bỏ Thầy con biết theo ai? Phản chiếu hình ảnh làn sóng năng lượng từ trái tim Chúa Giêsu truyền sang trái tim tâm hồn ông.

“ Một thứ lửa từ trái tim Chúa chia sẻ cho, sẽ làm cho gánh nặng Chúa trao được êm ái phần nào. Gánh nặng vẫn còn đó, nhưng ở đâu có lửa mến, ở đó có can đảm, vị tha và dâng hiến.

Lửa mến sẽ là nguồn khơi dậy những sáng kiến, để vẫn có thể mở Nước Trời trong những hoàn cảnh u tối nhất.:” ( Đức cố giám mục GB. Bùi Tuần)

Hình ảnh thoát ra từ trái tim

Trong đời sống các bậc vợ chồng, cha mẹ con cái, bạn bè đều đã có kinh nghiệm về gía trị qúy báu của những lời nói, những tâm tình cử chỉ thoát ra từ trái tim tâm hồn. Vì những điều đó gây cảm động, rung cảm có sức hấp dẫn thu hút người nghe đối diện. Nó phản ảnh sự chân thành tình yêu thương từ trái tim sang trái tim.

Nhiều Hội đoàn nhân vật trong xã hội có uy tín được mộ mến, tiếng nói của họ được lắng nghe theo dõi. Vì người nghe, khán thính giả cảm nhận ra từ nơi họ sự chân thành toát ra từ trái tim tâm hồn.

Mẹ Thánh Teresa thành Calcutta chỉ là một người phụ nữ có nếp sống đơn giản. Phải, bề ngoài là một diện mạo chân dung nghèo khó thôi. Nhưng tiếng nói, nụ cười hành động của Mẹ lại có sức thu hút truyền cảm mãnh liệt. Vì nơi con người nếp sống của Mẹ phát truyền đi ngọn lửa năng lượng toát ra từ trái tim chân thành của Mẹ. Nên lời nói của Mẹ được mọi người chú ý lắng nghe lấy làm phương châm cho đời sống. Việc làm hành động bác ái của Mẹ được mọi người ủng hộ yêu mến kính trọng. Khi Mẹ còn sống trên trần gian và cả lúc này Mẹ đã qua đời, ngọn lửa năng lượng tình yêu của Mẹ vẫn hằng cháy sáng.

Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, trên đường giảng đạo tình yêu Thiên Chúa ở đất nước bên Do Thái, Chúa Giêsu đã thấy nhiều người quay lưng bỏ đi không còn muốn nghe người rao giảng nữa, ngài liền hỏi các Môn đệ của mình: Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?

Hình ảnh này phản ảnh không phải tất cả mọi người nghe Chúa Giêsu đều đi theo người. Có người bỏ đi, có người đứng lại nghe tìm hiểu xem sao…

Trong dòng lịch sử của Giáo hội Chúa ở trần gian cũng không khác hơn gì. Đời sống đức tin vào Chúa luôn hằng trải qua những giai đoạn thăng trầm lên xuống.

Có những người Kitô hữu sống dửng dưng lạnh nhạt với Giáo hội, với sứ điệp phúc âm của Chúa. Vì họ thấy tôn gíao không có gì hấp dẫn giúp họ giải quyết vấn đề đời sống cá nhân, gia đình của họ. Họ không hay chưa cảm nghiệm được tiếng nói của Chúa Giêsu, của Giáo Hội đụng chạm vào trái tim của họ!

Có những người tín hữu nồng nhiệt tin theo Chúa. Vì họ cảm nhận ra năng lượng ngọn lửa từ trái tim tình yêu Chúa truyền lan sang tâm hồn đời sống họ.

Có những người tín hữu không có nếp sống nồng nhiệt hăng say với tin mừng phúc âm của Chúa Giêsu. Nhưng họ tin và dè dặt chờ đợi ngọn lửa năng lượng tình yêu của Chúa truyền sang cho tâm hồn trái tim họ.

Ông Tông đồ Phero ngày xưa khi nghe Chúa Giesu hỏi, đã nói ngay: Lạy Thầy, bỏ Ngài con biết theo ai?

Câu trả lời bộc trực của Phero nói lên: những lời Thầy nói, việc Thầy làm đụng chạm vào trái tim tâm hồn con. Nó gây niềm cảm động, phát truyền ngọn lửa năng lượng cho con có sức lực giúp vượt qua những thử thách đang chờ đợi trong cuộc sống.

Những lời Thầy dậy đánh động tâm hồn con, khơi dậy trong con sức sống phấn khởi vươn lên, cùng là hướng chỉ đường đi cho đời sống.

Trong đời sống xưa nay luôn hằng có những mời gọi, những hứa hẹn quyến dũ về tiện nghi thoải mái, về của cải vật chất cho đời sống có hạnh phúc. Nhưng kinh nghiệm dân gian cũng như bản thân mỗi người xưa nay cho hay, khi đã có được những thứ đó đâu đã là hạnh phúc. Vì hạnh phúc không là món hàng hóa vật thể mua được ở ngoài chợ cửa hàng. Con người còn muốn hơn nữa.

Trái tim tâm hồn mà được tròn trần đầy, lúc đó mới có niềm vui hạnh phúc. Vì thế tiếng nói việc làm toát ra từ trái tim gây niềm cảm động, truyền năng lượng, cùng thu hút trái tim tâm hồn người nghe, người đối diện.

Một người bà lâu ngày xa cháu kể lại lần đến thăm đứa chắt nội. Đứa bé lạ bà, còn rụt rè, nhưng bỗng dưng nó bẽn lẽn nói: Bà chụ con yêu chụ! Thế là Bà đứng yên rưng rưng dòng nước mắt…bà cảm thấy niềm vui hạnh phúc thần thánh tràn ngập trái tim tâm hồn bà. Biến cố kỷ niệm hạnh phúc thần thánh này bà nhớ mãi suốt đời…

Câu trả lời của Thánh Phero: Bỏ Thầy con biết theo ai? Phản chiếu hình ảnh làn sóng năng lượng từ trái tim Chúa Giêsu truyền sang trái tim tâm hồn ông.

“ Một thứ lửa từ trái tim Chúa chia sẻ cho, sẽ làm cho gánh nặng Chúa trao được êm ái phần nào. Gánh nặng vẫn còn đó, nhưng ở đâu có lửa mến, ở đó có can đảm, vị tha và dâng hiến.

Lửa mến sẽ là nguồn khơi dậy những sáng kiến, để vẫn có thể mở Nước Trời trong những hoàn cảnh u tối nhất.:” ( Đức cố giám mục GB. Bùi Tuần)

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290908.htm

 

Bài viết Hình ảnh thoát ra từ trái tim đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12699
Con Số & Ký Hiệu trong KITÔ GIÁO https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/ky-hieu/ Thu, 01 Aug 2024 20:21:40 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12578 -Trong cuộc đời ta bận tâm vì nhiều con số, Nhưng đã quên đi những điều nâng đờ tâm hồn, Hãy nhủ lòng là Ki-tô hữu phải luôn luôn, Bao giáo điều dẫn đường ta về nơi Hằng sống. *Này một người đến gặp Ngài mà hỏi: ” Lạy Thày, tôi phải làm điều gì …

Bài viết Con Số & Ký Hiệu trong KITÔ GIÁO đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>

-Trong cuộc đời ta bận tâm vì nhiều con số,

Nhưng đã quên đi những điều nâng đờ tâm hồn,

Hãy nhủ lòng là Ki-tô hữu phải luôn luôn,

Bao giáo điều dẫn đường ta về nơi Hằng sống.

*Này một người đến gặp Ngài mà hỏi: ” Lạy Thày, tôi phải làm điều gì lành để được sống đời đời? “. Nhưng Ngài nói với người ấy: “ Tại sao người hỏi Ta về sự lành? Chỉ có Đấng tốt lành. Nếu người muốn vào sự sống thì hãy giữ các giới răn.”. Người ấy hỏi Ngài “ Giới răn nào? “. Đức Giêsu nói: “ Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian. Hãy thảo kính cha mẹ và hãy yêu mến đồng loại như chính mình.” Người thanh niên lại nói với Ngài: “ Hết các điều ấy tôi đã giữ, vậy tôi còn thiếu gì? “Đức Giêsu nói với anh: “ Nếu người muốn được trọn lành, thì hãy đi bán những gì người có mà cho kẻ khó và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta.” Nghe lời ấy người thanh niên bỏ đi buồn rầu, vì anh ta có nhiều của cải. ( Mt.19: 16- 22 )

Đoạn Phúc Âm trên nói về người thanh niên giàu có và anh ta còn vươn mắc bao nhiêu con số thế trần không thể từ bỏ được. Đây chính là bài học Chúa dạy ta biết buông bỏ những vật chất mau qua và hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những điều giúp ích cho cuộc sống Vĩnh Hằng.

-Số l: Duy nhất trong bản tính Thiên Chúa- Hội Thánh duy nhất chân thật do Chúa Kitô thiết lập- Một cuộc sống đời này- Một phép rửa- Một cái chết và một sự phát xét sau khi chết. ( Những tín lý duy nhất được đề cấp rõ ràng nhất trong Kinh TIN KÍNH. ) Một ngôi vị trong 2 bản tính, vừa là Thiên Chúa vừa là con người.

-Số 2: Hai bản tính nơi Đức Kitô là nhân tính và thiên tính – Hai giao ước của Thiên Chúa với nhân loại, Cựu Ước và Tân Ước- Hai giới răn căn bản là Mến Chúa và Yêu Người- Hai nhóm người được chia ra trong ngày chung thẩm: người lành được cứu rỗi và kẻ nghich bị trầm luân.

-Số 3: Ba Ngôi Thiên Chúa – 3 ngày Chúa Giêsu nằm trong mồ rồi sống lại.-

Ba mẫu tự đầu I.H.S là chữ viết tắt La tinh: Jesus Hominum Salvator ‘nghĩa là Đức Giê-su Đấng Cứu Chuộc loài người.’

-Tuần tam nhật: Thời gian để cầu nguyện trước một Lễ trọng hay một dịp đặc biệt.

-Số 4: Bốn Thánh Sử Tin Mừng: Mátthêu, Luca, Marcô và Gioan-

Bốn nhân đức chủ yếu là khôn ngoan, công bình, tiết độ và dũng cảm. –

Bốn đặc tính Hội Thánh Ki-tô giáo trong kinh Tin Kính là Duy nhất, Thánh thiện, Công Giáo và Tông truyền.- Bốn cây nến thắp lên trước 4 tuần Lễ Chúa Giáng Sinh.

Bốn nghi thức phụng vụ trong Lễ vọng Phục Sinh: Nghi thức thắp nến- Phụng vụ Lời Chúa – Phụng vụ Phép Rửa tội- Phụng vụ Thánh Thể.

Trong bữa Tiệc ly, Chúa lập Bí tích Thánh Thể dựa trên 4 cử chỉ: Chúa cầm bánh- Dâng lời tạ ơn- Chúa bẻ bánh- Trao bánh cho các môn đệ.

Ta thường nghe nói ‘tội kêu thấu tới trời’ là bốn tội: Cố sát (St.4: 10) Loạn dâm đồng giới (St.18: 20)- Áp bức người nghèo (Xh.2: 23)- Ăn cướp tiền công của người lao động (Gc.5: 4)

-Số 5: Năm vết thương của Chúa Giêsu khi bị treo trên Thập giá: 2 tay 2 chân và cạnh sườn.

Năm hạt hương dính trên cây nến Phục sinh là biểu tượng cho 5 dấu đanh của Chúa Cứu Thế là Người đã sống lại. 5 mùa Phụng vụ gồm: Mùa vọng- Mùa Giáng sinh- Mùa Chay- Mùa Phục sinh- Mùa Thường niên.

-Số 6: Sáu ngày Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ- -Sáu ưu việt của Thiên Chúa: sức mạnh, oai nghi, quyền năng, khôn ngoan, tình yêu và công bình.

-Sáu điều Hội Thánh dạy:

(1) Xem Lễ ngày Chúa nhật.

(2) Chớ làm việc xác ngày Chúa nhật.

(3) Xưng tội trong 1 năm ít là 1 lần.

(4) Chịu Mình Thánh Chúa trong mùa Phục sinh.

(5) Giữ chay những ngày Hội Thánh buộc.

(6) Kiêng thịt ngày Thứ sáu cùng những ngày khác Hội Thánh dạy.

-Số 8: Tám mối phúc thật. ( Bài Chúa giảng trên núi )

(1) Phúc cho những tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ.

(2) Phúc cho những ai hiền lành, vì Chúa giành Đất Hứa cho họ.

( 3) Phúc cho những ai khóc lóc, vì sẽ được an ủi.

(4) Phúc cho những ai khao khát đời sống chính trực, vì sẽ được thỏa lòng.

(5) Phúc cho những ai biết thương xót người, vì chính mình sẽ được thương xót.

(6) Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa.

tính(7) Phúc cho những ai xây dựng hòa bình, sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

(8) Phúc cho những ai bị người bạc đãi và sống ngay lành, vì Nước Trời đã giành cho họ.

-Tuần bát nhật: 7 ngày tiếp theo sau một Lễ trọng và tính cả ngày lễ.

-Số 9: Chín phẩm Thiên Thần: Seraphim- Cherubim- Bệ Thần- Quản Thần- Dũng Thần– Quyền Thần- Lãnh Thần- Tổng Thần và Thiên Thần.

-Tuần Cửu Nhật chính Chúa Giêsu thiết lập đầu tiên trước ngày Ngài về Trời. Chúa truyền dạy các Môn Đệ hãy ở lại Jerusalem cầu nguyện trong 9 ngày đón nhận Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay chúng ta thường tổ chức làm Tuần Cửu Nhật trước những dịp Lễ Lớn hay xin ơn đặc biệt.

-Số 10: Mười Điều Răn do Chúa Giêsu truyền dạy qua Môsê lãnh nhận trên núi Sinai:

(1) Thờ phượng Thiên Chúa và kính mến Người trên hết mọi sự.

(2) Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ.

(3) Giữ ngày Chúa nhật.

(4) Thảo kính cha mẹ.

(5) Chớ giết người,

(6) Chớ làm sự dâm dục.

(7) Chớ lấy của người.

(8) Chớ làm chứng dối.

(9) Chớ muốn vợ chồng người.

(10) Chớ tham của người.

-Số 11: Diễn tả tình trạng không đầy đủ sau khi Giu-đa phản bội bán Chúa, chỉ còn 11 cần phải bổ xung trước Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

-Số 12: Mười hai Thánh Tông Đồ: Phêrô, Andrê, Giacôbê, Gioan, Philipphê, Tôma, Simon, Batôlômêô, Nathanel, Mátthêu, Giuđa Tađêô, Giuđa Itcariốt ( kẻ bán Chúa ). Và 12 Tông Đồ cũng tương ứng với 12 chi tộc Israel.

-Số 13: Con số chỉ sự lừa đảo, ám chỉ Giu-đa kẻ phản bội.

-Số 14: Ngắm 14 Đàng Thánh Giá:

(1) Quan Philatô luận giết Chúa Giê-su.

(2) Chúa Giêsu vác Thánh Giá.

(3) Chúa Giêsu ngã xuống đất lần thứ nhất.

(4) Đức Mẹ gặp Chúa Giêsu vác Thánh Giá.

(5) Ông Simon vác Thánh Giá đỡ Chúa.

(6) Bà Veronica trao khăn cho Chúa lọt mặt.

(7) Chúa Giêsu ngã xuống đất lần hai.

(8) Chúa Giêsu yên ủi thành Jerusalem.

(9) Chúa Giêsu ngã xuống đất lần ba.

(10) Quân dữ lột áo Chúa Giêsu.

(11) Quân dữ đóng đanh Chúa Giêsu.

(12) Chúa Giêsu sinh thì trên Thánh Giá.

(13) Tháo đanh Chúa xuống phó trong tay Đức Mẹ.

(14) Táng xác Chúa trong hang đá.

-Số 50: Lễ Ngũ Tuấn được cử hành vào ngày thứ 50 sau lễ Vượt Qua, để tưởng niệm việc Thiên Chúa trao ban giới luật qua Mô-sê- Đấng Cứu Thế hứa ban Chúa Thánh Thần xuống vào ngày thứ 50 sau lễ Phục Sinh.

-Số 72: Ngoài 12 Tông Đồ đại diện cho 12 chi tộc Ít-ra-en, Chúa Giê-su còn tuyển chọn 72 Môn Đệ đại diện nhân loại để sai đi rao giảng Tin Mừng và ban cho các ông quyền năng trừ quỉ, chữa các bệnh tật.

*Nhưng đặc biệt hai số 7 và 40 được nhắc đến nhiều trong Tín điều giáo lý Công Giáo và Kinh Thánh, nhiều nhất là sách Khải Huyền.

-Số 40: Trận lũ lụt Đại Hồng Thủy thời Noe mưa trút xuống địa cầu 40 ngày đêm liên tục, nước dâng cao phủ mặt đất, diệt hết loài người cùng muôn vật cỏ cây, chỉ những người và thú vật trên con tàu ông Noe được cứu thoát.

-Tổ phụ Moisen lập giao ước cùng Đức Giavê, chờ đợi 40 ngày trên núi Sinai để Chúa ban 10 Giới Răn cho loài người.

-Tiên tri Êlia bị hoàng hậu Jezebel truy bắt, trốn nơi sa mạc hoang vu suốt 40 đêm ngày mới thoát khi đến chân núi Horeb.

-Ngôn sứ Giona truyền báo dân thành Ninivê hãy ăn chay xám hối 40 ngày để tránh tai họa Thiên Chúa trừng phạt.

-Thiên Chúa che chở nuôi dưỡng dân Ngài qua 40 năm lang thang trong sa mạc trước khi vào Đất Hứa: ban ngày cho vầng mây che mát, đêm đến cột lửa soi đường, manna và chim cút sa xuống làm của ăn hàng ngày.

-Moisen sai người đi dò thám 40 ngày tìm miền đất mầu mỡ đầy sữa mật cho dân.

-Vua Đavít Chúa cho cai trị vương quốc 40 năm an bình thịnh vượng.

-Vua Salomon Chúa ban khôn ngoan thông thái tuyệt vời, 40 năm trên ngai vàng đưa đất nước Itraen trở lên giàu sang đầy quyền lực.

-Trước khi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, Chúa vào hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 ngày đêm và đã chiến thắng Satan cám dỗ.

-Chúa được an táng trong mồ 40 giờ sau Ngài Sống lại khải hoàn.

-Sau Phục sinh Chúa ở lại thế trần 40 ngày để an ủi các Môn Đệ và khi về trời sai Chúa Thánh Thần xuống ban sức mạnh cho các Môn Đệ đi rao giảng khắp nơi.

-Theo luật Moisen truyền dạy dân Chúa: người nữ sau khi sinh con 40 ngày phải lên Đền thờ dâng lễ vật để thanh tẩy.

-Đức Trinh Nữ Maria tuân giữa lề luật, sau khi sinh Hài Nhi 40 ngày Mẹ dâng Chúa trong Đền thánh cùng đôi chim bồ câu làm lễ vật.

-Kể từ đó sau lễ Giáng Sinh 40 ngày Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa vào Đền thờ cũng được gọi là Lễ Nến.

-40 ngày Mùa chay xám hối, chúng ta sẽ ca khúc vinh thắng cùng Chúa Phục Sinh.

– Số 7: Trong tín điều & giáo lý Công Giáo:

-7 Tổng Lãnh Thiên Thần gồm Michael, Grabiel, Raphael, Urel, Raguel, Ramiel, Zerachiel.

-7 Ơn Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, Minh mẫn, Mưu lược, Dũng mãnh, Đạo đức, Hiểu biết, Kính sợ.

-7 Đặc tính của Chiên Con: Quyền năng, Phú quí, Khôn ngoan, Dũng lực, Danh dự, Vinh quang, Chúc tụng.

-7 sự Thương khó Đức Mẹ:

(1) Ông Simêon nói tiên tri về Đức Mẹ.

(2) Đức Mẹ đem Chúa trốn sang Ai-Cập.

(3) Đức Mẹ tìm thấy Chúa trong Đền Thờ.

(4) Đức Mẹ gặp Chúa vác Thánh Giá.

(5) Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá.

(6) Đức Mẹ ôm Chúa khi hạ xác xuống.

(7) Đức Mẹ chứng kiến khi an táng Chúa.

-7 Phép Bí tích: Rửa tội- Thêm sức- Thánh thể- Giải tội- Sức dầu- Hôn phối- Truyền chức thánh.

-7 Mối tội đầu:

(1) Khiêm nhường chế kêu ngạo.

(2) Rộng rãi chớ hà tiện,

(3) Giữ mình sạch sẽ chớ mê dâm dục.

(4) Hay nhịn chớ hờn giận.

(5) Kiêng bớt chế mê ăn uống.

(6) Yêu người chớ ghen ghét.

(7) Siêng năng việc Đức Chúa Trời chớ làm biếng.

-Thương xót 7 mối:

(1) Cho kẻ đói ăn.

(2) Cho kẻ khát uống.

(3) Cho kẻ rạch rưới ăn mặc.

(4) Viếng kẻ đau ốm và tù tội.

(5) Cho khách đỗ nhà.

(6) Chuộc kẻ làm tôi.

(7) Chôn xác kẻ chết.

-Thương linh hồn 7 mối:

(1) Lấy lời lành mà khuyên người.

(2) Mở dạy kẻ mê muội.

(3) An ủi kẻ âu lo.

(4) Răn bảo kẻ có tội.

(5) Tha thứ kẻ khinh dể ta.

(6) Nhịn kẻ mất lòng ta.

(7) Cầu cho người sống và kẻ chết.

*Trong Thánh Kinh.

-7 Di ngôn của Chúa Giê-su trên đồi Thập Giá:

(1) Lạy Cha ! Xin tha cho họ vì họ không biết việc mình làm.

(2) Ta bảo thật hôm nay anh sẽ ở cùng Ta trên Nước Trời.

(3) Lạy Cha của Con ! Sao Ngài bỏ Con.

(4) Lạy Cha ! Con phó linh hồn trong tay Cha.

(5) Đây là con Bà và đây là Mẹ con !

(6) Ta khát !

(7) Thế là hoàn tất !

Chỉ riêng trong Cựu Ước số 7 đã được nhắc đến 77 lần.

-Sáng Thế Kỷ Chúa tạo dựng trời đất trong 7 ngày.

-Chúa phán: “ Ai giết Cain thì sẽ bị phạt gấp 7 lần “

-Cựu Ước gồm 7 cuốn: Gióp, Thánh Vịnh, Châm ngôn, Giảng viên, Diệu ca, Khôn ngoan, Huấn ca

-Eva được Chúa tạo thành từ xương sườn thứ 7 của Adam.

-Ngày thứ bảy là lễ Sa-bát của người Do Thái.

-Sau khi dân Chúa chiếm thành Giêricô thì 7 vị Tư Tế cầm 7 đèn và 7 loa đi vòng quanh thành.

-Giodép giải mộng cho vua Pharaông về 7 con bò gầy nuốt 7 con bò mập và 7 dẻ lúa lép nuốt 7 dẻ lúa tốt. Ông khuyên vua nên tích trữ lương thực cho 7 năm mất mùa.

*Trong Tân Ước- Đặc biệt trong Khải Huyền.

-Chúa dạy Phêrô phải tha thứ cho anh em 70 lần 7.

-Trong sách Công vụ Tông đồ có 7 Phó tế đầu tiên của Giáo hội sơ khởi.

-7 Thư chung của các Thánh Phê-rô, Gioan, Giacôbê và Giuđa Tađêô.

-Khải Huyền là sách cuối cùng trong 27 sách Tân Ước. Những hiện tượng sẽ xảy ra được Chúa mặc khải cho Thánh Gioan với những biến cố mang số 7 như 7 Giáo hội Tiểu Á tượng trưng cho Giáo hội toàn cầu- Con chiên 7 sừng 7 mắt biểu tượng thần khí Thiên Chúa- Con mãnh thú rồng đỏ 7 đầu đội 7 vương miện ám chỉ Satan – Con quái thú chính là hoàng đế Roma và con điếm chỉ thành Babylon và Dona sa đọa- 7 hạng người, 7 ngôi sao, 7 trụ đồng vàng, 7 chén, 7 kèn, 7 hồi sấm, 7 ngọn đồi, 7 ngọn đuốc, 7 kim bôi, 7 ấn tín..đều là những tiên báo sẽ xảy ra cho nhân loại.

-Số 100: Con số Thánh Kinh chỉ viên mãn- Đức Ki-tto đã nói đến một mùa gấp trăm lần và một phần thưởng gấp trăm lần.

Còn về cuộc sống con người:

Trăm năm tuổi thọ đời người,

Tựa như một áng mây trời trôi qua.

-Số 1000: Tượng trưng một số lượng vô hạn không thể đếm được- Thiên Chúa là Đấng duy nhất vĩnh cửu vì nơi Ngài không có yếu tố thời gian.

“Đối với Chúa một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày.” ( 2Pr.3: 8 )

-Vào đời hai tay trắng,

Lìa đời trắng đôi tay,

Tại sao còn vương vấn,

Những con số nơi đây !

Những Ký Hiệu Dòng Tu tại Việt Nam

Trước khi đề cập đến ký hiệu các Dòng Tu, ta cần nói đến 2 ký hiệu quan trọng nhất về Chúa Giêsu:

– Chữ INRI viết theo tiếng La-tinh nghĩa là JESUS NAZARENUS REX JUDAEOUM (Giêsu người Nazareth vua dân Do Thái )-Do Philatô cho viết trên đầu Thánh Giá khi Chúa chịu chết trên Núi Sọ-Golgota.

-Chữ JHS thường thấy viết trước bàn thờ hay thêu trên áo lễ có nghĩa là JESUS HOMINUM SALVATOR ( Đấng Cứu Chuộc nhân loại )

*Chúng ta thường nhận xét các Linh Mục, Đan Sĩ, Tu Sĩ qua màu sắc và kiểu y phục của những Dòng quen thuộc thường thấy như Dòng Chúa Cứu, Dòng Đa Minh, Dòng Don Bosco hay các Đan Sĩ…

Nhưng khi đọc những bài viết, sau tên tác giả gặp chữ viết tắt ta không biết rõ các vị này thuộc Dòng nào. Vì thế bài này xin trưng dẫn cách tổng quát để giúp người đọc khỏi bỡ ngỡ, nên không đi sâu vào chi tiết –

*Dòng Chúa Cứu Thế.

– Biểu hiệu viết tắt: C.Ss.R ( Congregatio Sanctissimi Redemptoris )

– Đấng sáng lập: Thánh Alphongso Maria Ligori

– Lễ Bổn mạng: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội

– Châm ngôn: Ơn Cứu chuộc nơi Người chan chứa

*Dòng Đa Minh.

– Biểu hiệu viết tắt: O.P ( Ordo Praedicatorum )

– Đấng sáng lập: Thánh Đa Minh

– Lễ Bổn mạng: Lễ kính Thánh Tổ Phụ Đa Minh

– Châm ngôn: Chiêm niệm và truyền thông chân lý

*Dòng La San.

– Biểu hiệu viết tắt: F.S.C ( Fratres Scholarum Christianorum )

– Đấng sáng lập: Thánh Jean Baptiste De La Salle

– Lễ Bổn mạng: Thánh Gioan La Salle

– Châm ngôn: Dấu chỉ Đức tin

*Dòng Salesien Don Bosco.

– Biểu tượng viết tắt: S.D.B ( Societas Salesiana Sancti Joannes Don Bosco )

– Đấng sáng lập: Cha Gioan Bosco

– Lễ Bổn mạng: Thánh Francois De Salle

– Châm ngôn: Xin cho các linh hồn- Mọi sự khác xin cứ lấy đi.

*Dòng Tên Chúa Giêsu.

– Biểu tượng viết tắt: S.J ( Societas Jesus )

– Đấng sáng lập: Thánh Ignace De Loyola

– Lễ Bổn mạng: Kính Danh Thánh Chúa Giêsu

– Châm ngôn: Cho vinh danh Thiên Chúa hơn.

*Dòng Phanxicô Anh Em hèn mọn.

– Biểu tượng viết tắt: O.F.M ( Ordo Fratum Minorum )

– Đấng sáng lập: Thánh Phanxicô Assisi

– Lễ Bổn mạng: Thánh Phanxicô Assisi

– Châm ngôn: Tham gia phục vụ Giáo hội và xã hội trong mọi lãnh vực.

*Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu.

– Biểu hiệu tên gọi thông thường: Les Petits Frères De Jesus

– Đấng sáng lập: Cha Rene Voillaume lập Dòng theo tinh thần tu sĩ

Charles De Foucauld.

– Lễ Bổn mạng: Lễ Chúa Giáng Sinh

– Châm ngôn: Theo gương Chúa Giêsu sống ẩn dật 30 năm hòa

đồng với mọi người.

*Dòng Thánh Thể.

– Biểu tượng viết tắt: S.S.S ( Societas Sanctissimi Sacramenti )

– Đấng sáng lập: Thánh Phêrô Giuliano Eymard

– Lễ Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Chúa Giêsu Thánh Thể

– Châm ngôn: Sống sung mãn mầu nhiệm Thánh Thể

và trình bày ý nghĩa mầu nhiệm Thánh Thể.

*Dòng Trợ Thể Thánh Gioan Thiên Chúa.

– Biểu tượng viết tắt: O.H ( Ordo Hospitalis )

– Đấng sáng lập: Thánh Gioan Thiên Chúa

– Lễ Bổn mạng: Thánh Gioan Thiên Chúa

– Châm ngôn: Phục vụ bệnh nhân và người nghèo khổ theo

gương Chúa Giêsu nhân từ và thương xót.

*Dòng Xi-tô Thánh Gia.

– Biểu tượng viết tắt: S.O.C ( Sanctus Ordo Cistircianus )

– Đấng sáng lập: Cha Henri Denis

– Lễ Bổn mạng: Lễ Thánh Gia Thất

– Châm ngôn: Cầu nguyện và Lao động

*Dòng Biển Đức.

– Biểu tượng viết tắt: O.S.B ( Ordo Sancti Benedicti )

– Đấng sáng lập: Thánh Bênêdictô

– Lễ Bổn mạng: Mỗi Đan Viện có lễ Bổn mạng khác nhau.

– Châm ngôn: Cầu nguyện và Lao động

+ Ngoài các Dòng trực thuộc quyền Giáo Hoàng nêu trên, ta còn thấy các Dòng sau đây trực thuộc quyền Giáo phận.

*Dòng Đồng Công.

– Biểu hiệu viết tắt: C.M.C ( Congregatio Matris Coredemptricis )

– Đấng sáng lập: Cha Đa Minh Maria Trần Đình Thủ

– Lễ Bổn mạng: Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc

– Châm ngôn: Không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ (Mt.20:28)

*Dòng Ngôi Lời Thánh Gia.

– Không biểu hiệu viết tắt.

– Đấng sáng lập: Đức cha Jean Sion

– Lễ Bổn mạng: Thánh Giuse 19/3

– Châm ngôn: Thánh hóa bản thân và tuân giữ các lời trong Phúc Âm.

*Dòng Thánh Tâm.

– Không biểu hiệu viết tắt.

– Đấng sáng lập: Đức cha Joseph Marie Engene Allys

– Lễ bổn mạng: Lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu

– Châm ngôn: Hãy đi rao giảng ( Mt.1:15 )

*Dòng Lời Chúa ( Dòng thừa Sai )

-Khẩu hiệu: Gratia et Gaudium in Fide ( Ân sủng và Tin Mừng trong Đức tin )

– Biểu hiệu viết tắt: F.M ( Missionaries of Faith )

– Đấng sáng lập: Chị Anna Maria Andreani và cha Luigi Duilio Grazioti

– Bổn mạng: Lễ Thánh Gia Thất

– Châm ngôn: Đạt đến Đức ái hoàn hảo qua thánh hóa bản thân và phục vụ Giáo Hội

*Dòng Thánh Gia.

– Biểu hiệu viết tắt: A.R.T ( Adveniat Regnum Tuum )

– Đấng sáng lập: Đức cha Valentin Herrgott

– Lễ Bổn mạng

: Thánh Gia Thất

– Châm ngôn: Nước Cha trị đến

*Dòng Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo.

– Không biểu hiệu viết tắt.

– Đấng sáng lập: Cha Ermin de Clerch

– Lễ Bổn mạng: Đức Mẹ thăm viếng

– Châm ngôn: Vì Chúa Giêsu là đạo Phúc Âm của Người.

*DÒNG THỪA SAI BÁC ÁI.

– Missionries of Christ’s Charity.

– Đấng sáng lập: Mẹ Teresa Calcutta

– Lễ Bổn mạng: 5/9 ngày Mẹ Teresa qua đời

– Châm ngôn: Một lối sống đơn sơ, một tâm hồn tuyệt vời

*Ghi chú: Dòng Thừa Sai Bác Ái là Tu hội thuộc quyền Giáo Phận 7/10/50

Dòng Thừa Sai Bác Ái là Tu hội thuộc quyền Giáo Hoàng 1/2/65

+ Chân thành cảm tạ và mong thông cảm những thiếu sót.

+ Cùng xin lỗi không nói đến các Tu Hội vì quá nhiều và không nắm vững.

Đinh văn Tiến Hùng

(*) Ghi chú: Đây không phải là bài biên khảo về Thánh Kinh-Giáo lý và các Dòng, nhưng với mục đích muốn giới thiệu cách tổng quát đóng góp thêm cho đời sống thiêng liêng-Những con số và ký hiệu có thể ta đã gặp còn khái quát hay không nhớ hết vì cuộc sống bận rộn bao quanh hàng ngày.

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290908.htm

 

Bài viết Con Số & Ký Hiệu trong KITÔ GIÁO đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12578
Lòng có đầy miệng mới nói ra! https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/tieng-noi/ Sun, 30 Jun 2024 21:51:49 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12415 Hình ảnh “Lòng có đầy miệng mới nói ra!” Trong dân gian xưa nay có nhận xét “Lòng có đầy miệng mới nói ra!” phản ảnh kinh nghiệm về điều gì gây xúc động cho tâm trí, như tình yêu mới, một ý tưởng phát minh mới về công việc làm ăn, học hành, hay …

Bài viết Lòng có đầy miệng mới nói ra! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>

Hình ảnh “Lòng có đầy miệng mới nói ra!”

Trong dân gian xưa nay có nhận xét “Lòng có đầy miệng mới nói ra!” phản ảnh kinh nghiệm về điều gì gây xúc động cho tâm trí, như tình yêu mới, một ý tưởng phát minh mới về công việc làm ăn, học hành, hay một điều mong muốn từ lâu nay thành hiện thực, hay cũng có thể điều gì, dù không muốn, nhưng luôn chờ đợi cơ hội có dịp được nói đề cập đến. Và ngay cả chính điều gì, mà đã từ lâu không nói đến, nhưng bất chợt xuất hiện trong tâm trí như một đề tài trung tâm của trái tim tâm hồn, và mong muốn được nói đề cập đến.

Những gì được nói ra thành ngôn ngữ tiếng nói qua môi miệng là kết qủa “Lòng có đầy miệng mới nói ra!”.

Điều này phản ảnh không chỉ những suy nghĩ ngay chính tốt lành xây dựng, nhưng cả những gì trái ngược lại nữa, tùy theo phương hướng lòng xác tín tin tưởng trong đời sống của mỗi người.

Có hình ảnh như thế trong nếp sống niềm tin tinh thần đạo gíao không?

Kinh nghiệm về hình ảnh như thế trong nếp sống tinh thần đạo gíao nơi con người xưa nay không là luật trừ. Vì thế luôn hằng có nhiều con đường nếp sống đạo gíao niềm tin khác nhau trong dân gian, trong các nền văn minh, văn hóa thời đại xưa nay. Công việc truyền giáo về niềm tin nơi các tôn giáo xưa nay trong dòng thời gian lịch sử nói lên rõ nét “Lòng có đầy miệng mới nói ra!”.

Thánh Phaolô, vị tông đồ truyền giáo sau khi Chúa Giêsu Kitô về trời, đã từ Jerusalem nước Do Thái bôn ba trên khắp các nẻo đường đất nước đế quốc Roma, cho đến khi ông chết tử vì đạo ở Roma năm 68. sau Chúa giáng sinh, đã đi đến tận các vùng xa xôi rao giảng bằng lời nói cùng bằng chữ viết qua các thư gửi các Giáo đoàn, mà ông đã đến thành lập, gieo vãi hạt giống tin mừng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Phaolô đã viết nói lên lý do công việc truyền giáo đức tin vào Chúa Giêsu Kitô “ tôi đã tin, vì thế tôi nói ( 2 cor 4,13)”.

Với Ông đức tin vào Chúa Giêsu Kitô khắc ghi sâu trong tâm hồn trái tim từ ngày ông được Chúa Giêsu mặc khải cho biết về Ngài, và đã kêu gọi làm tông đồ ra đi làm chứng loan báo về Chúa cho con người. Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô đã thôi thúc tâm hồn trái tim ông, niềm xác tín vào Chúa Giêsu Kitô như năng lượng trào dâng từ trong trái tim tâm hồn, khiến ông không quản ngại sợ thử thách cùng mệt mỏi. Do đó ông muốn luôn luôn làm sao cho càng nhiều người biết về đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Thiên Chúa cứu độ linh hồn con người khỏi hình phạt vì tội lỗi.

Những điều Phaolô rao giảng bằng lời nói, những dòng chữ Phaolô viết về đức tin vào Chúa Giêsu Kitô cho các Giáo đoàn là kết qủa tuôn tràn từ trong trái tim tâm hồn ông ra môi miệng, chữ viết nơi bàn tay, như ngạn ngữ dân gian tin tưởng: “Lòng có đầy miệng mới nói ra!”.

Các vị Thừa sai hồi thế kỷ thứ 17. đã hy sinh dấn thân từ bên các nước Âu châu sang vùng Á Châu, các nước như Nhật bản, Trung Hoa, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái lan, Ấn Độ, rồi cả bên Phi Châu… sinh sống truyền bá tin mừng Chúa Giêsu Kitô cho dân tộc các nước đó, cho dù phải chịu đựng những thử thách, đói khổ bệnh tật, kể cả bị ngược đãi, bắt bớ tù đày và chết tử vì đạo. Chính tình yêu từ trong trái tim đã thúc đẩy các Vị dấn thân làm công việc đi rao giảng Tin mừng cho Giáo hội Chúa Giêsu Kitô ở trần gian. Như Thánh Phaolô đã có lời xác tín “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (cf. 2Cr 5, 14-20).

Cha Alexandre de Rhodes (15.03.1593 – 05.11.1660) Dòng Tên Chúa Giesu, một nhà truyền giáo người Pháp khi sang Việt Nam đã nung nấu tâm huyết học ngôn ngữ bản xứ để rao giảng Lời Chúa. Và từ ý tưởng tâm huyết đó, ngài đã học ngôn ngữ thời lúc đó để giao thương thông thạo thành công, và từ đà lực đó ngài đã góp công phát triển xây dựng cho việc hình thành Chữ Quốc Ngữ viết theo mẫu tự Latinh A B C…Ngài viết lại kinh nghiệm tâm tư “Lòng có đầy miệng mới nói ra.”:

“Tôi thấy cha Fernandez và cha Buzomi phải dùng thông ngôn để giảng, chỉ có cha Francois de Pina không cần thông ngôn vì nói rất thạo. Tôi nhận thấy bài ngài giảng có ích hơn nhiều bài các vị khác. Điều này khiến tôi tận tụy học hỏi, tuy vất vả, thế nhưng khó ít mà lợi nhiều. Tôi liền chuyên chú vào việc. Mỗi ngày tôi học một bài và siêng năng như khi xưa vùi đầu vào khoa thần học ở Rôma. Chúa đã cho tôi trong bốn tháng tôi đủ khả năng để ngồi tòa giải tội và trong sáu tháng tôi đã giảng được bằng ngôn ngữ Đàng Trong và cứ thế tôi tiếp tục trong nhiều năm. Tôi khuyên tất cả các vị nhiệt tâm muốn tới những tỉnh dòng chúng tôi để chinh phục các linh hồn, thì nên chuyên cần ngay từ buổi đầu. Tôi quả quyết rằng hiệu quả của việc trình bày các mầu nhiệm bằng ngôn ngữ của họ thì vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn: thông ngôn chỉ nói điều mình dịch, chứ không sao nói với hiệu lực của lời từ miệng nhà truyền đạo có Thánh Thần ban sinh khí.” (Alexandre De Rohdes, Hành trình và truyền giáo, Divers Voges et Misisions, Bản dịch của Hồng Nhuệ, Tủ sách Đại kết 1994, Chương III., trang 55-56).

Linh mục Pierre Lambert de la Motte (1624– + 15.06.1679), ngày dâng thánh lễ mở tay, đã có tâm nguyện: “Tình yêu Thiên Chúa đã đốt lên nơi tôi lòng nhiệt thành đến với người chưa biết Chúa, để nhờ công nghiệp Máu Thánh Chúa đổ ra, họ cũng được ơn cứu độ.”. Và năm 1658 linh mục Lambert De la Motte được cắt cử sai đi sang truyền gíao bên Thái Lan, bên Việt Nam và được bổ nhiệm phong làm Giám Mục cho những vùng nơi đó. Chính Ngài đã sống cuộc đời hy sinh dấn thân vì tin mừng cho Chúa, và đã thành lập Dòng nữ tu Mến Thánh Gía cho Giáo hội Việt Nam và Tháilan.

Sứ vụ ra đi truyền giáo của ngài phản chiếu rõ nét “Lòng có đầy miệng mới nói ra!”, điều mà ngài đã có tâm niệm ấp ủ trong trái tim tâm hồn từ lúc còn trẻ tuổi.

Rồi trong đời sống hằng ngày xưa nay, biết bao nhiêu người đã thực hiện những việc những lời nói lớn lao kỳ diệu, hay cả những việc tuy thông thường nhỏ thôi cũng là kết qủa của “Lòng có đầy miệng mới nói ra!”

Những người quảng đại dấn thân cho công việc bác ái nhân đạo, chọn sống cho lý tưởng tôn gíao đạo đức cao đẹp, dù có phải hy sinh đời sống ý thích riêng tư, đều có động lực năng lượng thôi thúc phát xuất từ trong tận trái tim tâm hồn, như câu nói trong dân gian “Lòng có đầy miệng mới nói ra!”.

Lời nói hay việc làm của con người phản ảnh lại những gì đã ôm ấp thai nghén từ tận trong trái tim tâm hồn, như Chúa Giêsu Kito đã dùng hình ảnh bông hoa, trái qủa của một cây là kết qủa phát xuất từ hạt giống thân cây chui trồi ra:

“Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt.Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho! Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.” (Lc 6,43-46).

Trên sân cỏ Euro 2024, đội tuyển bóng đá của các quốc gia vùng Âu Châu nỗ lực ra sức thi đấu mong muốn mang chiến thắng về cho đội tuyển quốc gia đất nước mình. Điều này phản ảnh tinh thần ước vọng, chí khí, mà các cầu thủ đội tuyển cũng như đất nước quê hương của họ đã nung nấu ấp ủ từ những ngày tháng năm qua trong trí óc cùng trái tim tâm hồn.

Khát vọng mong muốn của các đội tuyển bóng đá thi đấu trên sân cỏ để dành chiến thắng với nghệ thuật chơi thể thao trong tinh thần cao thượng “ Fair play” thể hiện hình ảnh lòng có đầy, mới tuôn trào ra bên ngoài!

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290261.htm

 

Bài viết Lòng có đầy miệng mới nói ra! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12415
Hàng Dễ Vỡ, Xin Nhẹ Tay! https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/nhe-tay/ Mon, 10 Jun 2024 00:53:35 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12347 Trong đời sống hàng hóa mua bán trao đổi thường được gửi chuyển nhờ những hãng bưu điện giao hàng tận nhà người nhận. Cung cách vận chuyển hàng này nhanh chóng tiện lợi cùng mang lại công ăn việc làm về kinh tế cho đời sống xã hội phát triển tốt. Và ngoài tên …

Bài viết Hàng Dễ Vỡ, Xin Nhẹ Tay! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>

Trong đời sống hàng hóa mua bán trao đổi thường được gửi chuyển nhờ những hãng bưu điện giao hàng tận nhà người nhận. Cung cách vận chuyển hàng này nhanh chóng tiện lợi cùng mang lại công ăn việc làm về kinh tế cho đời sống xã hội phát triển tốt.

Và ngoài tên địa chỉ người nhận viết trên mặt hộp thùng hàng, cũng có hộp thùng ghi thêm hàng chữ: Fragile, hàng dễ vỡ, xin nhẹ tay! Có những hộp thùng hàng còn in thêm hình chiếc ly, tách, hộp quần áo nữa, để gây thêm chú ý…Vì hàng chứa đựng bên trong là loại hàng dễ vỡ bể, nên cần phải cẩn thận nhẹ tay khi khuân chuyển bốc dỡ hàng lên xuống!

Đó là cung cách xử sự với hàng hóa vật dụng dễ bị vỡ bể khi chuyên chở. Cung cách này cũng phản ảnh kinh nghiệm về bản chất đời sống con người: Đời sống chúng ta dễ bị vỡ bể, dễ bị tổn thương, dễ bị lâm vào vòng nguy hiểm…

Thân xác các cơ quan thân thể con người chúng ta cũng thuộc loại hàng dễ bị vỡ bể, dễ bị thương tích. Rồi ngay cả tình yêu, hạnh phúc niềm vui, mối tương quan dây liên lạc giữa con người với nhau trong mọi khía cạnh đời sống cũng dễ bị vỡ bể tan nát thành xa lạ.

Xưa nay trong dòng lịch sử, bình diện tương đối luôn hằng hiện diện trong những phương diện đời sống con người trên trần gian. Điều này không chỉ nói lên không có gì tuyệt đối, mãi mãi tồn tại, mà còn hàm chứa ý nghĩa suy tư nói lên khía cạnh dễ vỡ bể, dễ thay đổi suy tàn chóng qua với thời gian.

Vì thế không chỉ hàng hoá đồ vật dễ vỡ bể cần phải chú ý cẩn thận nhẹ tay, mà cả thân thể cùng đời sống tinh thần con người nữa, cũng cần phải nhẹ nhàng nhòa nhã trong cung cách đối xử với nhau, trong ngôn ngữ tương quan giao tiếp, trong suy nghĩ phán đoán nhận xét cùng qủa quyết…. Nên dòng chữ Fragile, hàng dễ vỡ, xin nhẹ tay! trở thành lời nhắc nhở luôn cần thiết cho cuộc sống con người hằng ngay.

Trong đời sống con người thì như vậy, còn trong nếp sống tinh thần đức tin đạo giáo thì sao? Có hình ảnh nào nói lên đức tin dễ vỡ bể không?

Ngay từ lúc còn tấm bé trong gia đình hạt giống đời sống đức tin tinh thần vào Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa Thượng Đế tạo dựng nên vũ trụ, nên sự sống mọi loài, cùng nuôi sống gìn giữ cho phát triển, được gieo trên thửa đất tâm hồn con người.

Ngoài các cơ quan thân xác con người, Đấng Tạo Hóa còn ghi khắc phú bẩm nơi mỗi con người khả năng đời sống tinh thần. Đó là lương tâm sống biết phân biệt điều tốt lành khác với điều không tốt lành, mà chúng ta quen gọi là làm sự lành tránh sự dữ.

Đấng Tạo Hóa cũng khắc ghi trong dòng thời gian tuổi tác nơi mỗi người sự nhậy bén cảm nhận ra sự tốt đẹp trong thiên nhiên, trong tình liên đới nơi cuộc sống xã hội con người. Khả năng này giúp con người cùng nhau xây dựng nếp sống cho chính mình và cho xã hội.

Đấng Tạo Hóa còn phú bẩm cho cơ quan bộ máy tâm trí con người khả năng sáng tạo vươn lên, cơ hội đổi mới bắt đầu lại, theo như phương châm tin tưởng: Không ai có tất cả, và cũng không ai mất tất cả!

Những giá trị đời sống đức tin tinh thần đó, là kho tàng. Kho tàng đức tin tinh thần này Thánh Phaolo đã xác tín “Habemus autem thesaurum istum in vasis fictilibus – Chúng ta có kho tàng chứa đựng trong bình sành dễ vỡ bể. (cor 4,7).

Trong suốt dọc dòng thời gian đời sống xưa nay, hầu như ai cũng đều đã, đang cùng sẽ sống trải qua kinh nghiệm về sự dòn mỏng dễ vỡ bể, về giới hạn nơi thân xác cùng tâm trí của đời sống riêng mình, cũng như của Giáo hội Chúa ở trần gian:

Kho tàng đức tin tinh thần không trả lời cho hết mọi thắc mắc về đời sống, nhưng là sức khơi dậy vươn lên cởi mở và thành thực cho những thắc mắc.

Kho tàng đức tin tinh thần không bài trừ sự hoài nghi, nhưng mở ra con đường tiến về phía trước, sự hoài nghi không là tiếng nói quyết định sau cùng.

Kho tàng đức tin tinh thần không kết thúc bài trừ sự bơ vơ chán nản buông xuôi, nhưng kích vực giúp thêm lòng can đảm, niềm hy vọng tìm cách sống vượt qua, để không bị chìm ngập trong bơ vơ cô đơn chán nản buông xuôi.

Kho tàng đức tin tinh thần không là thứ cảm giác cuồng nhiệt bó buộc, nhưng là cung cách sống căn bản của lòng tin tưởng, nó có thể giúp trong hoàn cảnh do dự lưỡng lự tìm nhận thấy niềm vui cho đời sống.

Thánh Phaolô đã có suy tư xác tín tràn đầy kinh nghiệm về nếp sống dễ vỡ bể của đời sống kho tàng đức tin tinh thần vào Thiên Chúa:

“ Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi.8 Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng;9 bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt.10 Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi.” ( Cor 4,7-11)

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290261.htm

 

Bài viết Hàng Dễ Vỡ, Xin Nhẹ Tay! đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12347
Mình Máu Thánh Chúa https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/minh-mau-thanh-chua/ Wed, 29 May 2024 19:54:15 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12296 Hằng năm người tín hữu Chúa Kitô mừng kỷ nệm bí tích Thánh Thể ngày Thứ năm tuần thánh. Và vào ngày Thứ Năm, 10 ngày sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, mừng trọng thể Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô lần nữa với cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa ở bên …

Bài viết Mình Máu Thánh Chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
Hằng năm người tín hữu Chúa Kitô mừng kỷ nệm bí tích Thánh Thể ngày Thứ năm tuần thánh. Và vào ngày Thứ Năm, 10 ngày sau lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, mừng trọng thể Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô lần nữa với cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa ở bên ngoài thánh đường.

Đâu là hình ảnh ngày lễ mừng trọng thể này?

Vào đầu thế kỷ 13. năm 1246 nữ tu Juliana thành Luettich, nước Bỉ, qua một thị kiến đã sống trải qua, có tin tưởng cho rằng trong Giáo Hội còn thiếu lòng sùng kính Bí tích Thánh Thể. Và những năm sau đó theo đề nghị, Đức Giáo Hoàng Urban IV. năm 1264 đã thiết lập lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa trong toàn thể Giáo Hội, để cổ võ lòng sùng kính Bí tích Mình Máu Thánh Chúa. Lễ này nhắc nhớ đến bí tích Thánh Thể, mà Chúa Giêsu đã thiết lập chiều ngày Thứ Năm tuần thánh năm xưa với các Tông đồ trước khi ngài chịu khổ hình.

Từ ngày Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể là lương thực cho đời sống tâm hồn đức tin con người, Bí Tích này trở thành trung tâm nguồn sức sống tinh thần đức tin cho Giáo Hội Chúa ở trần gian. Trong dòng thời gian từ hơn hai ngàn năm nay, vào mỗi ngày Chúa Nhật, có nơi hằng ngày, người tín hữu Chúa Kitô tụ họp lại dâng thánh lễ tạ ơn mừng kính “mầu nhiệm đức tin” bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô.

Lịch sử cho biết vào thế kỷ thứ 3. Hoàng đế của đế quốc Roma ra lệnh cấm đạo, những người tín hữu Chúa Kitô bị bắt giam cầm. Trong ngục tù lúc bị tra khảo hỏi khẩu cung họ can đảm tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, và không ngần ngại nói lên tâm tình:” Chúng tôi không thể sống mà không có ngày Chúa nhật.”. Như thế họ muốn nói lên rằng: chúng tôi không thể sống đích thực là người tín hữu Chúa Kitô, nếu không có Thánh lễ tạ ơn. Vì Bí tích Thánh Thể Chúa là trung tâm buổi tụ họp của cộng đòan Giáo hội chúng tôi.

Trên căn bản đó đời sống tinh thần Giáo Hội Chúa ở trần gian phát triển lớn mạnh đứng vững qua việc cử hành Thánh lễ tạ ơn mừng kính mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể Chúa Kitô, tựa như hình ảnh nguồn sức sống nơi dòng máu từ trái tim bơm luân chuyển đi khắp cùng thân thể nuôi sống các cơ quan bộ phận.

Những tín hữu Chúa Kitô thời Giáo Hội sơ khai cùng trong dòng thời gian xưa nay luôn có khát vọng mừng kính cùng tiếp nhận Bí Tích Thánh Thể Chúa Kitô, mỗi khi họ tụ họp dâng thánh lễ tạ ơn. Họ cùng chia sẻ với nhau Tấm bánh và chén rượu thánh lễ tạ ơn để nhắc nhớ đến Chúa Giesu Kitô, Đấng hiện diện ở giữa họ trong Tấm bánh Chén Rượu dâng tiến trong thánh lễ.

Thánh lễ tạ ơn, Bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô là trung tâm, là trái tim của Giáo Hội Chúa ở trần gian, từ nơi đó đời sống Giáo Hội được xây dựng phát triển, không chỉ với những người còn đang sống trên đường lữ hành nơi trần gian, nhưng còn cả với những người đã ra đi về đời sau không còn trên đường lữ hành trần gian nữa.

Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu trong ngày lễ trọng kính Mình Máu Thánh Chúa được chứa đựng trong Mặt Nhật ( Montrance) và được kiệu rước qua các đường phố trong khu xóm, trong khuôn viên thánh đường, hay qua cánh đồng ruộng…để mọi người chiêm ngắm kính thờ với lòng cung kính.

Nơi Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô hiện diện, và người tín hữu Chúa tiếp nhậnTấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô là lương thực cho đời sống tâm hồn niềm tin, như Chúa Giêsu mời gọi.

Đức cố giáo hòang Benedictô 16. đã dùng hình ảnh so sánh về hiệu qủa của Bí Tích Thánh Thể trong đời sống đức tin với đời sống thân thể con người:

“Thánh giáo phụ Augustino có suy tư về năng lực sống động của cộng đoàn bí tích thánh thể, khi ông liên kết trong chiều kích sự chiêm ngưỡng ngắm nhìn, mà Chúa Giêsu nói cho ông:” Thầy là thực phẩm cho mạnh khoẻ. Xin hãy triển nở lớn mạnh, như con tiếp nhận Thầy. Thầy sẽ không biến đổi đồng hóa con trong Thầy, như thực phẩm nơi thân thể, nhưng Thầy sẽ trở thành, khi Thầy biến đổi nơi con!

Đang khi các cơ quan của con người chúng ta tiếp nhận thực phẩm dinh dưỡng nuôi sống thân thể, cũng như vậy diễn xảy ra trong trường hợp Tấm bánh bí tích Thánh Thể: Không phải chúng ta tiếp nhận Tấm bánh Thánh Thể, nhưng tấm bánh Thánh Thể tiếp nhận chúng ta nơi Chúa Giêsu, người trở nên đồng hình dạng là thành phần nên một của thân thể ngài. Trên thực tế, vì Chúa Kitô qua Tấm bánh bí tích Thánh Thể, mà chúng ta tíếp nhận, đã biến đổi chúng ta trong chính người, mở ra chân trời cuộc gặp gỡ cá nhân giữa nhau, giải thoát khỏi sự ích kỷ quy hướng về mình, cùng được liên kết với con người Chúa Giêsu Kitô trong cộng đoàn Ba ngôi Thiên Chúa.

Đang khi Bí tích Thánh Thể nối kết người tín hữu Chúa với Chúa Giêsu Kitô, cũng mở ra con đường đối diện với những người khác, khiến chúng ta trở nên thành phần liên kết giữa nhau: không còn ngăn cách xa lạ nhau, nhưng là một trong Chúa Giêsu Kitô. Cộng đòan Bí Tích Thánh Thể liên kết nối liền tôi với những người bên cạnh tôi, với cả người xa lạ không hay chưa quen biết, với mọi người trong Giáo hội Chúa. Từ nơi Bí Tích Thánh Thể, Giáo hội Chúa hiện diện về phương diện xã hội nơi đời sống con người.”.

Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Nguồn: https://vietcatholic.net/News/Html/290132.htm

 

Bài viết Mình Máu Thánh Chúa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12296
Tìm Hiểu Về Tháng Hoa https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/dang-hoa/ Tue, 30 Apr 2024 15:47:11 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12155 Giáo Hội đã đặt ra nhiều kinh nguyện để ca tụng, ngợi khen và cầu xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ. Biết bao thi sĩ, nhạc sĩ đã dâng lên Mẹ muôn lời thơ, vạn ý nhạc. Nhưng nói về Mẹ, viết về Mẹ sẽ không bút nào tả xiết, không lời nào diễn …

Bài viết Tìm Hiểu Về Tháng Hoa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
Giáo Hội đã đặt ra nhiều kinh nguyện để ca tụng, ngợi khen và cầu xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ. Biết bao thi sĩ, nhạc sĩ đã dâng lên Mẹ muôn lời thơ, vạn ý nhạc. Nhưng nói về Mẹ, viết về Mẹ sẽ không bút nào tả xiết, không lời nào diễn tả cho xứng. Đã có nhiều đền thánh được Giáo Hội đặc biệt dâng kính Đức Mẹ; Giáo Hội cũng đã đặt nhiều ngày lễ biệt kính các đặc ân và biến cố của Mẹ để tỏ lòng tạ ơn và suy tôn Mẹ. Và đặc biệt, Giáo Hội đã dành trọn tháng Năm này để biệt kính Mẹ, và tháng này như là thời khắc ưu việt để mọi con cái kết hợp với Mẹ cách riêng từng giây phút trong tình yêu tuyệt vời với Con Mẹ là Chúa Giêsu – Người Con mà Mẹ đã ban tặng cho nhân thế.

Tháng 5 là tháng dâng hoa kính Đức Mẹ Maria. Giáo Hội dành riêng tháng này để bày tỏ lòng tôn kính, mến yêu đặc biệt nơi Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu nơi trần thế. Chúng ta cùng dành thời giờ trong những ngày đầu tiên trong tháng này để tìm hiểu và suy tư về nguồn gốc, ý nghĩa và tác động của tháng Hoa kính Đức Mẹ, vốn đã trở nên hết sức quen thuộc với mỗi người chúng ta.

Những ai đã sống tuổi thiếu niên ở một giáo xứ có truyền thống dâng hoa lên Đức Mẹ trong tháng 5, hẳn sẽ không thể nào quên được bầu không khí linh thiêng đầy hân hoan của những ngày ấy. Và một em gái nào đã một lần được dâng hoa trong tháng 5, thì suốt đời mình, dù là một bà cụ thất học hay một nhân vật lẫy lừng khắp năm châu, người ấy cũng mãi trung thành với Đức Mẹ và xem Mẹ là vị trung gian không thể nào thiếu được trên con đường đi đến với Chúa Kitô.

Trong tháng 5, rất nhiều nhà thờ công giáo tại Việt Nam có tập tục truyền thống, đó là bà con giáo dân với lời ca tiếng hát, đều tiến lên dâng hoa chúc tụng cảm tạ và mừng kính Mẹ. Truyền thống đạo đức này đã có từ rất xưa. Nó xuất phát từ lòng mến mộ bình dân đối với Đức Mẹ. Con cái Mẹ, thì muốn tỏ lòng kính yêu Mẹ, một người Mẹ gần gũi, chăm chú đến từng người con, nhất là những đứa con yếu đuối, bệnh tật, nghèo hèn. Dâng hoa cho Đức Mẹ là một nghĩa cử thật đẹp và mang nhiều ý nghĩa để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Giáo Hội và cũng là Mẹ mỗi người chúng ta.

Trong tháng Năm, khi ngàn hoa với muôn sắc hương nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời. Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhịp nhàng: “Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa… Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần. Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng. Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời. Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời… Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về. Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi. Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ. Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”. Những bài ca này đã trở nên thật gần gũi và rất quen thuộc với mỗi chúng ta khi Tháng Hoa về.

Tháng Năm là thời điểm chuyển giao của mùa xuân và mùa hè, là thời điểm muôn hoa đua nở, vạn vật tràn đầy sức sống và màu sắc.

Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Công giáo, hàng năm khi tháng Năm về, người Rôma đón mừng sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng việc tổ chức gọi những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.

Dâng hiến trọn một tháng để thực thi một việc sùng kính đặc biệt, là một điều mà Dân Chúa mới thực thi tương đối gần đây. Truyền thống dâng lên Đức Mẹ những đoá hoa tươi thắm dần được thiết lập qua dòng thời gian. Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên khi tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.

Các tín hữu Công giáo đã mựơn chính những cảnh sắc thiên nhiên, những đoá hoa tươi đẹp đó để như gói ghém trọn tâm tình của mình dâng lên Đức Mẹ. Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ.

Từ thế kỷ XIII, một vài xứ đạo ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã dâng tháng 5 để tổ chức những cuộc rước hoa, để đem hoa đến dâng kính Đức Mẹ. Nhiều văn nghệ sĩ đã sáng tác các bài ca dùng màu sắc và hương hoa để diễn tả tâm tình con thảo ca tụng các đức tính cao quý của Đức Maria.

Đến thế kỷ 14, Cha Henri Suzo (OP), vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và dâng hoa trang hoàng thánh tượng Đức Mẹ.

Vào ngày 1 tháng 5 hằng năm, thánh Philipe de Neri thường tập họp các trẻ em Công giáo đến quanh bàn thờ Đức Mẹ để dâng lên Đức Mẹ những bông hoa tươi thắm đầy hương sắc. Cùng các bông hoa mùa xuân, thánh nhân cũng dâng cho Đức Mẹ các nhân đức cao đẹp còn ẩn náu trong tâm hồn thơ trẻ của chúng.

Đầu thế kỷ XVII, tại vùng Napoli nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng kính Đức Mẹ được cử hành cách long trọng: Mỗi buổi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh Chúa. Từ ngày đó, tháng kính Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các giáo xứ trong vùng.

Các linh mục dòng Tên đã tổ chức tháng hoa kính Đức Mẹ trong trường lưu trú của các sinh viên học sinh của Dòng từ các nơi gởi về Roma để được đào tạo. Mãn khóa học, các sinh viên này, khi trở về quê nhà đã đem theo thói quen và cách tổ chức Tháng Hoa ở Roma truyền bá ra. Vì thế mà tập tục này được phát triển rộng khắp. Vào năm 1654, cha Nadasi (SJ) đã xuất bản tập sách nhỏ kêu gọi giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ.

Tới đầu thế kỷ XIX, trong Giáo việc tổ chức tháng kính Đức Mẹ đã được tổ chức cách long trọng. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ.

Năm 1815, Đức Thánh Cha Piô VII đã khuyến khích việc tôn sung Đức Maria trong tháng Năm. Đức Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức này năm 1889. Đức Thánh Cha Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, nhấn mạnh “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.

Và năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI gửi Tông huấn đề cao lòng tôn sung Đức Mẹ Maria trong tháng 5. Qua đó, ngài cũng nêu lên những giá trị cao quý của việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ những tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai toà rất dồi dào của Đức Mẹ” (Tông huấn về việc tôn kính Đức Mẹ, số I).

Đức Thánh Cha mở đầu tông huấn bằng những lời diễn tả tâm tình Tháng kính Đức Mẹ thật đáng để chúng ta ghi nhớ:

“1. Tháng Năm dường như đã đến đây rồi, một tháng mà lòng đạo đức bình dân từ lâu đã dành dâng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Trái tim Tôi vui mừng khi nghĩ đến cánh cửa đức tin và tình yêu thương đang chuyển biến; đức tin và tình yêu thương phải sớm được dành cho Nữ Vương Thiên Đàng tại khắp mọi miền trên trái đất. Vì đây là tháng mà các Kitô hữu, tại các nhà thờ cũng như tại tư gia, dâng lên Mẹ Đồng Trinh những hành vi kính trọng và tôn sùng yêu mến và sốt sắng hơn; và đây cũng là tháng mà Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta biết bao nhiêu hồng ân lớn lao hơn từ ngai toà của Mẹ chúng ta.

2. Tôi lấy làm vui mừng và an ủi bởi thói quen đạo đức liên kết với Tháng Năm, là tháng dành dâng kính Đức Trinh Nữ và mang lại nhiều lợi ích cho dân Kitô giáo. Bởi vì một cách đúng đắn, Đức Maria được xem như một con đường mà qua đó chúng ta được dẫn tới Chúa Kitô, người nào gặp gỡ Đức Maria thì không thể không gặp gỡ Đức Kitô như vậy. Vì lý do nào khác mà chúng ta lại không tiếp tục trở về với Đức Maria để tìm kiếm Đức Kitô trong cánh tay của Mẹ, tìm gặp Đấng Cứu Độ chúng ta trong, qua và với Mẹ? Con người cần phải trở về với Đức Kitô trong thế giới đầy lo âu và nguy hiểm, thôi thúc bởi trách nhiệm và nhu cầu cấp bách của trái tim con người hầu tìm thấy một nơi ẩn trú an toàn và một mạch nước sự sống siêu việt”.

Đức Thánh Cha Phaolô VI cũng đã đặt lại chỗ đứng của việc tôn kính Đức Mẹ Maria, nghĩa là việc tôn kính Mẹ Maria phải được đặt vào trong tương quan của mầu nhiệm ơn cứu rỗi, việc tôn kính Đức Mẹ phải được đi đôi với những mầu nhiệm trong cuộc đời của Đức Kitô. Việc tôn kính Mẹ Maria trong tháng Năm là một truyền thống tốt đẹp, nhưng nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, cùng đích của mọi việc tôn thờ là chính Chúa. Trong niềm hiếu thảo đối với Mẹ Maria, người Kitô hữu luôn được mời gọi để không ngừng kết hiệp với Chúa. Người Kitô hữu không nhìn lên Mẹ Maria như một Nữ Thần, mà là một tín hữu mẫu mực, một người tín hữu đã tiên phong trong cuộc hành trình đức tin.

Tháng Hoa về, khắp các nhà thờ Công giáo ở Việt Nam, dù tại các thành thị hay miền nông thôn xa xôi, những tâm tình dâng lên Đức Maria Mẹ Thiên Chúa vẫn thật nồng ấm. Các bản tiến hoa được dâng lên Đức Mẹ cách long trọng. Có những đội hoa hàng mấy trăm người. Nhờ đó, lòng tôn sùng và yêu mến Đức Mẹ không ngừng được cổ võ và thăng tiến.

Tháng Hoa như một dịp đẹp nhất và thuận tiện nhất để tất cả chúng ta cùng tỏ lòng kính yêu Mẹ bằng những bó hoa thiêng, bằng những lời kinh nguyện sốt sắng và tâm tình thảo hiếu biết ơn dâng lên Mẹ hiền qua tràng chuỗi Mân Côi và các bài Thánh Ca du dương về Mẹ trong các Giờ Chầu, Giờ Ðền Tạ tại tư gia hay trong các nguyện đường. Dĩ nhiên, lòng tôn sùng kính yêu Mẹ Maria của chúng ta vẫn sốt sắng trải dài từng ngày trong suốt năm. Nhưng tháng Năm lại mang mầu sắc đặc biệt mời gọi, thúc đẩy chúng ta dâng Mẹ những bông hoa thiêng thanh khiết. Bàn thờ kính Mẹ trong tháng Năm phải đầy hoa tươi, biểu tượng cho lòng tôn sùng biết ơn của chúng ta dâng về Mẹ, biểu tượng cho sự đổi mới cuộc đời của mỗi người chúng ta để chúng ta trưởng thành trong ân sủng Thánh Linh

Ý nghĩa trọn vẹn của Tháng Hoa là: Hoa thiên nhiên đồng nội hòa lẫn với hoa lòng, hoa thánh thiện, hoa mầu nhiệm của Ơn Thánh tươi nở trong linh hồn chúng ta. Tất cả cùng tỏa hương thơm và khoe sắc trên bàn thờ kính Mẹ.

Để kết thúc, chúng ta cùng thân thưa với Mẹ qua việc dâng lên Người những bông hoa ngát hương đang khoe sắc:

Xin dâng lên Mẹ hoa hồng của lòng yêu mến, xin Mẹ dạy chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng con.

Xin dâng lên Mẹ hoa vàng của niềm tin sắt đá, xin Mẹ dạy chúng con sống phó thác và tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa như Mẹ.

Xin dâng lên Mẹ hoa xanh của niềm cậy trông và hy vọng, xin đừng để chúng con thất vọng chùn bước trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào của cuộc sống.

Xin dâng lên Mẹ hoa trắng của sự trinh trong, xin Mẹ giúp chúng con gìn giữ tâm hồn luôn trong trắng, sạch tội.

Xin dâng lên Mẹ hoa tím của những đau thương, bệnh tật, tang tóc, cô đơn, xin Mẹ dạy chúng con biết vui lòng chấp nhận Thánh Giá Chúa gởi đến để trung thành bước theo Đức Kitô, Con của Mẹ.

Thiên Ân

Nguồn: Tổng Giáo Phậ̣n Hà Nội

 

Bài viết Tìm Hiểu Về Tháng Hoa đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12155
Hình ảnh người chăn chiên tốt lành https://dauantinhyeuthienchua.com/song-dao/nguoi-chan-chien/ Fri, 19 Apr 2024 16:06:26 +0000 https://dauantinhyeuthienchua.com/?p=12110 Theo tập tục nếp sống văn hóa bên Tây phương vào dịp lễ mừng Chúa phục sinh những con Thỏ phục sinh làm bằng Sôcôla được trưng bày bán đổ trao tặng nhau. Kinh Thánh không nói đến con Thỏ. Nhưng con Chiên, là con vật nổi bật như „ngôi sao trên sân khấu, sân …

Bài viết Hình ảnh người chăn chiên tốt lành đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
Theo tập tục nếp sống văn hóa bên Tây phương vào dịp lễ mừng Chúa phục sinh những con Thỏ phục sinh làm bằng Sôcôla được trưng bày bán đổ trao tặng nhau. Kinh Thánh không nói đến con Thỏ. Nhưng con Chiên, là con vật nổi bật như „ngôi sao trên sân khấu, sân cỏ“, được nói nhắc đến nhiều. Trong kinh thánh cựu ước nó được nói đến 159 lần, trong tân ước 37 lần.

Chiên cừu là con thú vật giữ vai trò quan trọng trong đời sống dân du mục, và trong nông nghiệp của dân Do Thái cùng những dân tộc tương tự bên vùng Trung đông.

Chiên cừu trong kinh thánh là hình ảnh biểu tượng được dùng để chỉ về dân của Thiên Chúa.

Hình ảnh Chiên cừu nói về con người trong ý hướng tinh thần tâm linh muốn diễn tả sự đi lạc lối. Vì chiên cừu đi ăn trên đồng cỏ thường chạy đi ra phía đàng trước, rẽ sang ngang, rồi lại quay trở lại… có khi vì thế lạc lối, lạc đàn chung. Con người cũng vậy, đôi khi sống không thành thật, khi đối xử không đẹp không tốt với người khác, hay làm tổn thương danh dự tiếng tốt cùng của cải của người khác, hay làm đau lòng người khác qua lời nói không lịch sự tao nhã… Những cung cách tiêu cực như thế kinh thánh gọi tên là sống sai lạc luẩn quẩn, như Ngôn sứ Isaia nói. „Tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu lang thang mỗi người một ngả.“ (Isaia 53,6).

Cũng trong ý nghĩa tinh thần thiêng liêng Chúa Giesu không muốn để cho những con chiên phải đi lạc đàn, phải mất, nên Ngài nói chính Ngài là người chăn chiên : „Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta.“

Thế nào là hình ảnh người chăn chiên tốt lành?

Đó đây nhất là bên vùng Trung đông, bên Âu châu nơi vùng thung lũng hay bên sườn đồi núi, nơi có những đồng cỏ xanh tốt, thường thấy những người mục đồng chăn lùa đàn súc vật hằng trăm con chiên cừu đến ăn cỏ, chung quanh chúng có những con chó chạy canh cho chúng khỏi đi chạy lạc xa đàn. Những con chiên cừu thú vật tin tưởng người chăn dắt chúng, nên chúng tuân nghe hiệu lệnh của họ. Vì chúng biết mình được người chăn chiên chăm sóc dẫn tới đồng cỏ xanh tốt cùng có vũng nước uống trong lành an toàn cho đời sống thể xác phát triển tốt.

Chúa Giesu dùng hình ảnh người chăn chiên tốt lành nói về mình, trong cung cách nếp sống lo cho đời sống tinh thần từng người một, quan tâm băn khoăn đi tìm con chiên đi lạc, và khi tìm thấy rất vui mừng hạnh phúc, bồng ẵm bế nó trên vai trở về nhà cho an toàn, sẵn sàng hy sinh tất cả tìm cách cứu giúp.

Qua hình ảnh đó Chúa Giêsu muốn củng cố lòng can đảm con người chúng ta. Ngài luôn đi kiếm tìm chúng ta và quan tâm săn sóc chúng ta.

Tất cả mọi người đều có khát vọng mong ước được quan tâm chú ý đến, đi tìm kiếm khi ta đi lạc đường sai lối. Được nâng đỡ vực dậy, khi ngã té không còn sức tiếp tục đứng dậy. Được bảo vệ gìn giữ, khi gặp sự đe dọa nguy hiểm cho mạng sống. Được an ủi chữa lành, khi vướng vào hoàn cảnh khó khăn tủi nhục.

Chúa Giêsu trong vai trò là người chăn chiên hết mình vì đoàn chiên, chứ không phải là người đi kiểm soát. Vì thế ngài khẳng định:

“Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên.“ ( Ga10,11-18). Với Ngài mỗi sự sống con chiên, sự sống của mỗi người là một công trình tạo vật cao qúy do Thiên Chúa tạo dựng nên.

Hình ảnh người chăn chiên tốt lành lo cho sự sống của các con chiên, mà Chúa Giêsu dùng nói về chính mình làm liên tưởng đến hình ảnh bàn tay trần đầy tình yêu thương của cha mẹ săn sóc lo cho con cái mình ngay từ khi chúng còn là bào thai trong cung lòng mẹ, rồi ngày mở mắt chào đời và trong suốt dọc đời sống.

Hình ảnh người chăn chiên tốt lành lo cho sức khoẻ các con chiên, mà Chúa Giêsu dùng nói về mình gây niềm cảm xúc nhớ đến những vị Thừa Sai, những người có lòng nhân nghĩa bác ái, xả thân hy sinh đến những với những người nghèo khổ túng thiếu ở những nơi xa lạ có khi còn có sự nguy hiểm đe dọa mạng sống, cùng chia sẻ sống chung ra tay giúp đỡ họ.

Hình ảnh người chăn chiên tốt lành lo cho sự sống tinh thần, niềm an vui bình an của các con chiên, mà Chúa Giesu dùng nói về mình, vọng lại lời kinh khấn nguyện tràn đầy lòng tin tưởng phó thác:
„Chúa lo chăn dắt đời con
Đâu còn thiếu thốn, đâu còn sợ chi.“ (Thánh vịnh 23, 1).

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

Nguồn: VietCatholic

 

Bài viết Hình ảnh người chăn chiên tốt lành đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .

]]>
12110